Theo Cao Đài Từ Điển của HT Nguyễn Văn Hồng:
“Pháp Chánh Truyền là pháp luật chơn chánh mà Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng
Đế truyền dạy để làm căn bản lập giáo, tổ chức và điều hành nền Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ.
Pháp Chánh Truyền được Đức Chí Tôn giáng cơ ban cho ngay sau khi làm Lễ
Khai Đạo tại Thánh Thất tạm đặt tại Từ Lâm Tự (chùa Gò Kén) Tây Ninh. Đó là đêm
15 rạng 16 tháng 10 năm Bính Dần (dl 20-11-1926), phò loan: Đức Hộ Pháp Phạm
Công Tắc và Đức Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư.
Theo lời thuật lại của Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu thì đêm đó, Đức Chí
Tôn giáng cơ viết rất nhanh, điển ký là ông Giáo Hữu Son chép không kịp, Đức
Chí Tôn bảo ông Hậu chép tiếp”.
Chúng ta biết cặp cơ phò loan do Đức Hộ Pháp và Đức Cao Thượng Phẩm là cặp
cơ quan trọng nhứt gọi là cặp cơ Phong Thánh. Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Đức có
thuyết giảng như sau: “Theo lời Đức Hộ Pháp, Đức Cao Thượng Phẩm là chơn linh Hớn
Chung Ly, một vị Đại Tiên trong Bát Tiên, lãnh sứ mạng của Chí Tôn đến tạo dựng
nền tôn giáo tại thế nầy. Người cùng Đức Hộ Pháp hợp thành cặp cơ Phong Thánh,
lập Pháp Chánh Truyền và Tân Luật để làm hiến chương cho nền Quốc Đạo”.
Kế đến là việc khi Đức Chí Tôn giáng cơ ban cho Pháp Chánh Truyền thì cơ viết
rất nhanh mà một người chép không kịp, đây là một huyền diệu để chúng ta thêm
tin tưởng rằng đây quả là Thiên ý chớ không mảy may có phàm ý xen vào.
2. Pháp Chánh Truyền chú giải :
Pháp Chánh Truyền do Đức Chí Tôn ban cho rất ngắn gọn chớ không có diễn tả
chi tiết nên đến ngày mùng 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Đức Lý Giáo Tông và
Đức Hộ Pháp ban hành Đạo Nghị Định thứ sáu, có đoạn sau:
“Nghĩ vì, Pháp Chánh Truyền, Lão đã dạy Hộ Pháp chú giải, chẳng thi hành từ
thử, làm cho Cửu Trùng Ðài và Hiệp Thiên Ðài phản khắc Ðạo quyền, gây nên rối
loạn Chánh Giáo Chí Tôn.
NGHỊ ÐỊNH
Hai vị Thiên Phong Giáo Tông và Hộ Pháp phải điều đình Hiến Pháp, sửa trị
Ðài mình cho hiệp Pháp Chánh Truyền, nên đồng ký tờ nầy mà ước hẹn”.
Do Đạo Nghị Định nầy Đức Hộ Pháp chú giải, tức là giải nghĩa từng câu trong
Pháp Chánh Truyền và sau đó Đức Lý phê duyệt lại và từ đó chúng ta có Pháp
Chánh Truyền chú giải.
3. Pháp Chánh Truyền được Đức Chí Tôn và Đức Lý ban cho
qua nhiều bài Thánh giáo.
Pháp Chánh Truyền ấn định sự phân quyền, phân nhiệm, phẩm phục cũng như
phương pháp công cử của tất cả chư chức sắc, chức việc . . . tức là tổ chức cơ
quan quyền lực của Đạo nên Pháp Chánh Truyền được mệnh danh là bộ hiến pháp của
Đại Đạo. Theo lời giải thích của các bậc tiền bối thì hiến pháp nầy thuộc cang
tính hiến pháp tức là không thể sửa đổi và có giá trị đến thất ức niên.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có dạy: “Thầy tưởng chẳng cần nói,
nếu ai là đạo đức, đọc đến cách lập pháp của Thầy mà chẳng mừng dùm cho nhơn loại”.(15-4-1928)
Pháp Chánh Truyền được ban cho qua nhiều bài Thánh giáo trong nhiều ngày
khác nhau, chúng ta có thể kể như:
-PCT Cửu Trùng Đài nam phái do Đức Chí Tôn ban cho ngày 16-10-Bính Dần, tức
là ngày thứ hai trong lễ khai đạo tại Từ Lâm Tự (chùa Gò Kén).
-PCT Hiệp Thiên Đài do Đức Chí Tôn ban cho ngày 21-1- Đinh Mão (13-2-1927).
-PCT Cửu Trùng Đài nữ phái do Đức Lý Giáo Tông ban cho (không thấy ghi ngày
tháng).
- Riêng về các phẩm trật chức việc Bàn Tri Sự do Đức Lý Giáo Tông và Đức Hộ
Pháp lập thành chớ buổi ban sơ không có trong Pháp Chánh Truyền CTĐ.
Thực ra nếu cho PCT là bộ Hiến pháp của Đạo Cao Đài thì phải bao gồm cả :
Hành pháp, lập pháp và tư pháp. Chúng ta biết cơ quan lập pháp của Đạo là ba Hội
lập quyền vạn linh tức là Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh, và Thượng Hội. Mà ba hội nầy
được thành lập do bài Thánh giáo Đức Chí Tôn ban cho vào ngày 23-12-1931 như
sau:
Thầy, các con
Thầy lấy làm vui được gặp các con đủ mặt ngày-nay mà hầu
Thầy.
Các con nghe lời dặn cần-yếu nầy, mà làm phận-sự các con
cho vẹn vẻ cùng Thái-Bạch.
Các con phải nhớ rằng toàn Thế-giới Càn-khôn, chỉnh có
hai quyền: trên là quyền-hành Chí-Tôn của Thầy, dưới là quyền-hành của
sanh-chúng. Thầy đã lập hình-thể hữu-vi của Thầy, nghĩa là Hội-Thánh của Ðại-Ðạo
ngày nay rồi thì Thầy cũng phải ban quyền-hành trọn-vẹn của Thầy cho hình-thể ấy,
đặng đủ phương tận-độ chúng-sanh, còn các con cả thảy đều đứng vào hàng
sanh-chúng, dưới quyền-hành chuyển thế của đời, nghĩa là toàn nhơn-loại đồng
quyền cùng Thầy, mà tạo-hóa vạn-linh vốn là con-cái của Thầy, vậy thì vạn-linh
cũng có thể đoạt-vị vào hàng Thần, Thánh, Tiên, Phật đặng.
Trong quyền-hành ấy có nhiều đẳng-cấp, nên khỏi phải chịu
phẩm Người: ấy vậy Người là chủ-quyền của vạn-linh. Thầy nói rõ: quyền
Chí-Tôn là Thầy, quyền Vạn-linh là sanh-chúng, ngày nào quyền-lực Chí-Tôn đặng
hiệp một cùng Vạn-linh thì Ðạo mới ra thiệt-tướng. Thầy đã ban quyền-hành
Chí-Tôn của Thầy cho hai đứa làm đầu Hội-Thánh là Giáo-Tông cùng Hộ-Pháp. Vậy
thì quyền-hành Chí-Tôn của Thầy đặng trọn-vẹn khi Giáo-Tông cùng Hộ-Pháp hiệp một .
Còn cả nhơn-loại thì là quyền lực Vạn-linh. Quyền-hành Chí-Tôn của Thầy, duy có
quyền-hành Vạn-linh đối-phó mà thôi.
Thái-Bạch hằng giận các con rằng: mọi điều chi nó đã hiệp
đồng cùng Hộ-Pháp mà ban-hành, thì các con lại còn khi lịnh mà xem rẻ-rúng. Vậy
thì từ đây hễ có mạng-lịnh chi đã đủ hai đứa nó hạ-truyền thì các con phải hội
đủ nhơn-sanh Hội-Thánh và Thượng-Hội mà xét nét cho cặn-kẽ phân-minh,
đặng thi hành phận-sự.
Thái-Bạch đã hứa cùng Thầy rằng, qua ngày Tòa Tam-Giáo nữ-phái
rồi, thì nó sẽ phong Thánh thêm nữa, Các con rán mà chìu theo lòng nó nghe.
Thầy ban ơn cho các con. Thăng.
Đây là bài Thánh giáo rất quan trọng mà từ bài nầy mới có Ba Hội Lập quyền
Vạn Linh: Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh và Thượng Hội. Và qua bài thánh giáo nầy ĐCT
ban quyền Chí Tôn tại thế cho 2 vị Giáo Tông và Hộ Pháp gộp lại.
Nên sau nầy chúng ta có thể thỉnh cầu Hội Thánh cầu xin ĐHP chú giải thêm
bài Thánh giáo nầy và thêm vào PCT chú giải.
4-Một số điểm đặc biệt của Pháp Chánh Truyền:
- Tam đầu chế: tức là một phẩm nhưng có đến 3 người quyền hành ngang nhau,
đó là các phẩm: Chưởng Pháp, Đầu Sư và Chánh Phối Sư. Đây là điểm ít thấy trong
các nền chánh trị Đạo hay đời xưa nay…Dĩ nhiên một việc gì ba người họp lại quyết
định thì vẫn hay hơn một người…
-Trên hết là hai vị Giáo Tông và Hộ Pháp, một người cầm quyền chánh trị và
một người về luật lệ chớ không phải một người nên tránh được nạn độc tài, độc
đoán.
- Tuy nhiên trong trường hợp cần quyền thống nhất thì hai vị Giáo Tông và hộ
Pháp sẽ giao vào tay ba vị Đầu Sư như trường hợp loạn Đạo thì ba vị Đầu Sư cầm
quyền thống nhất để đối phó, xong rồi thì giao lại cho Giáo Tông và Hộ Pháp như
cũ…
-Buổi Tam Kỳ nữ phái được nâng đỡ rất nhiều do vậy nữ phái cũng được vào
hàng chức sắc Thiên phong như nam phái song không được nắm quyền ở hai phẩm cao
nhất là Giáo Tông và Chưởng Pháp. Tuy nhiên về cấp số mỗi phẩm thì vô giới hạn
chỉ trừ phẩm nữ Đầu Sư và nữ Chánh Phối Sư thì chỉ một vị.
- Về Cơ Quan Lập Pháp gồm có ba Hội là Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh và Thượng Hội,
tức là Tam Viện chế (ngoài đời thì Quốc hội chỉ có một Viện hay hai Viện mà
thôi).
- Chánh trị đời theo chính thể dân chủ hiện tại thường áp dụng nguyên tắc Tam
quyền phân lập nghĩa là các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp độc lập
với nhau. Còn Chánh trị Đạo Cao Đài các nghị viên trong Hội Nhơn Sanh, Hội
Thánh và Thượng Hội đều là chức sắc chức việc đương quyền nghĩa là người của cơ
quan hành pháp cũng là cơ quan lập pháp…Điều nầy có lợi điểm là các vị nầy nhìn
thấy được sự khó khăn trong khi thi hành luật pháp và thấy được nhu cầu của
nhơn sanh cần những luật lệ gì để lập nên…Nhưng không phải vì vậy mà đưa đến độc
tài vì ngay trong nội bộ cơ quan đã có sự giám sát như Hội Thánh anh thì có phẩm
Chưởng Pháp là người của HTĐ nằm trong CTĐ; còn ở Hội Thánh em thì có phẩm
Thông Sự có quyền giám sát hành tàng của Chánh Trị Sự và Phó Trị Sự…Và bên cạnh còn có Pháp Chánh HTĐ giám sát việc
hành Đạo ở từng địa phương Trấn, Châu, Tộc Đạo…
-Hai phẩm Giáo Tông và Đầu Sư có thể so sánh với Vua (hay Tổng Thống) và Thủ
Tướng theo quyền đời. Theo chính thể dân chủ thì Tổng Thống trong hoàn cảnh đặc
biệt khẩn trương của đất nước có thể được ban hành các sắc luật mà không cần quốc
hội biểu quyết…Trong Đạo Cao Đài Giáo Tông và Đầu Sư được quyền lập luật nếu thấy
cần thiết cho nền Đạo…
5-Ba phương cách lập luật trong chánh trị Đạo Cao Đài:
a.Ba hội: Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh và Thượng Hội là Cơ Quan Lập Pháp chính
yếu của Đạo. Ba Hội nầy được gọi là ba Hội Lập Quyền Vạn Linh.
Theo quyển Chánh Trị Đạo của Ngài Khai Pháp:
“Trong chánh thể trị Đạo, quyền dân được đặc biệt tôn trọng. Coi như Hội
Nhơn Sanh, trên có hai hội Hội Thánh và Thượng Hội hiệp lại làm cơ quan của quyền
Lập pháp, tức quyền Vạn Linh. Nguyện ước của Nhơn sanh sau khi được ba hội thảo
luận và đồng ý kiến chấp thuận được dâng lên quyền Chí Tôn phê chuẩn thành luật
ban hành”…
Về cách biểu quyết nơi Thượng Hội:
“Các điều ước nguyện của Hội Nhơn Sanh và Hội Thánh; những điều nào hoặc của
Hội Nhơn Sanh mà Hội Thánh đánh đổ, hoặc của Hội Thánh mà Hội Nhơn Sanh đánh đổ
thì không được phép đệ lên Thượng Hội, trừ khi nào có đơn của hai ông Nghị Trưởng
kêu nài”…
“Khi đã bàn cải xong rồi, Hộ Pháp và Giáo Tông có ý kiến chi thì mới tỏ bày
sau rốt, rồi Nghị Trưởng (Giáo Tông) định cho bỏ thăm, vẫn lấy đa số thăm làm qui
tắc.
Quyền của Giáo Tông và của Hộ Pháp hiệp lại là quyền Chí Tôn tại thế, cho
nên hai vị Đại Thiên Phong nầy khong có bỏ thăm .
Nếu cả 3 Hội phản khắc nhau thì quyến Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp lại chỉ định
thế nào thì chánh trị Đạo phải đi theo thế ấy.
Thảng Giáo Tông và Hộ Pháp phản khắc nhau thì cả thảy ý kiến chánh trị và
nguyện ước của chúng sanh đều hủy bỏ. Chừng ấy, Hội Nhơn Sanh Hội Thánh và Thượng
Hội phải nhóm lại để thảo luận lần thứ hai nữa”.
b.Hai vị Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp lại là Quyền Chí Tôn tại thế:
Theo Thánh giáo Đức Chí Tôn ngày 23-12-1931:
“Thầy đã ban quyền-hành Chí-Tôn của Thầy cho hai đứa làm
đầu Hội-Thánh là Giáo-Tông cùng Hộ-Pháp. Vậy thì quyền-hành Chí-Tôn của Thầy đặng
trọn-vẹn khi Giáo-Tông cùng Hộ-Pháp hiệp một”.
Đây là trường hợp Bát Đạo Nghị Định do ĐHP và Đức Lý Giáo
Tông ký ban hành vào ngày mùng 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930) và ngày Rằm tháng
bảy năm Giáp Tuất (1934).
Đức Lý Giáo Tông và Đức Hộ Pháp còn ban hành một số Đạo
Luật khác như Đạo Nghị Định số 48 ban hành ngày 19 tháng 10 năm Mậu Dần (1938)
thành lập Thập Nhị Đẳng Cấp Phước Thiện và ấn định sắc phục cho chư vị nầy…
Ngoài ra Đức Hộ Pháp và Đức Quyền Giáo Tông cũng ban hành
một số Đạo luật điển hình như Đạo Luật tổ chức Thượng Hội ban hành ngày 22
tháng Giêng năm Nhâm Thân 1932…
c. Đạo Luật do chư vị Giáo Tông,
Đầu Sư và Chưởng Pháp thành lập:
Pháp Chánh Truyền chú giải nơi quyền hành Chưởng Pháp :
“Giáo Tông có quyền lâp luật, ấy là quyền cao trọng của
các Đấng Thiêng Liêng cùng Chí Tôn ban cho nắm giữ, và Đầu Sư là người thay mặt
cho cả nhơn sanh, ấy là quyền cao trọng của cả nhơn sanh ban cho, hai đàng phải
tương đắc mới bền vững cơ tạo thế Trời người hiệp một…
Một Đạo luật nào của Giáo Tông truyền xuống mà nghịch với
sụ sanh hoạt của nhơn sanh, Đầu Sư đã định quyết không thể thi hành đặng thì
chính mình Đầu Sư phải đệ lên cho Chưởng Pháp mà cầu người sửa cải.
Còn như Giáo Tông tiếp đặng một Đạo luật nào của Đầu Sư
dâng lên mà phạm phép Thiên điều thì chính mình Giáo Tông cũng phải truyền xuống
cho Chưởng Pháp xét nét, hai bên không đặng ỷ quyền bỏ luật, làm cho thất thể đôi đàng; phải phải
phân phân, để cho Chưởng Pháp định liệu. Như quyết định mà hai đàng không thuận,
thì người phải dâng lên cho Hộ Pháp đến Hiệp Thiên Đài cầu Thầy sửa lại, hay là
Hộ Pháp luận ý đôi bên mà lập lại…”
Ấy vậy Chưởng Pháp có quyền xem xét luật lệ trước buổi thi hành. Luật lệ
nào không có ba ấn Chưởng Pháp thị nhận và Hiệp Thiên Đài phê chuẩn thì cả
chư Tín Đồ của Thầy không tuân mạng”.
Trong Pháp Chánh Truyền, phần quyền hành Đầu Sư cũng có đoạn:
“Ba vị Đầu Sư không ai lớn, không ai nhỏ, Hay(1) quyền vốn đồng
quyền, Luật Lệ nào của Giáo Tông truyền xuống hay là của nhơn sanh dâng lên mà
đã có Chưởng Pháp và Hiệp Thiên Đài phê chuẩn, thì dầu cho một người trong ba
mà chịu vâng mạng thì Luật Lệ ấy cũng phải buộc ban hành. Hay..(1) Trừ ra khi
nào ba người đồng không thể tuân mạng lịnh đặng, thì luật lệ ấy phải trả lại
cho Giáo Tông; buộc Giáo Tông phải truyền xuống cho Chưởng Pháp xét nét lại nữa”…
6-Tính cách Dân Chủ trong chánh trị Đạo Cao Đài:
1)-Quyền ứng cử và bầu cử vào các phẩm BTS nơi thôn xã:
Các phẩm trật BTS nơi thôn xã được tổ chức bầu cử và ứng cử công khai và
dân chủ để điều hành sinh hoạt Đạo trong địa phương.
Trích Pháp Chánh Truyền :
“Thông Sự là người đồng thể cùng Phó Trị Sự trong địa phận của Phó Trị Sự
cai quản, song người có quyền về luật lệ chớ không có quyền về chánh trị.
Thông Sự là người của Hiệp Thiên Đài để tùng quyền Chánh Trị Sự. Phận sự của
người thì phải xem xét, kiểm dượt cử chỉ hành đạo của Phó Trị Sự. Moi việc chi
làm cho mất lẽ công bình nơi địa phận của Phó Trị Sự cai quản mà Hội Thánh
không rõ thấu, thì Thông Sự phải chịu phần trách cứ.
Những điều chi sái luật Đạo, chẳng y theo lịnh Hội Thánh tư truyền, hoặc sửa
cải Tân Luật, hoặc cải lịnh hành chánh, nếu chẳng có phép của Chánh
Trị Sự truyền dạy mà Phó Trị Sự tự chuyên thi hành, Hội Thánh lại không hay biết
chi hết, thì tội tình ấy về phần Thông Sự.
Tuy người phải chịu dưới quyền Chánh Trị Sự mặc dầu, song đặng quyền sửa lỗi
của Chánh Trị Sự. Thảng như đã thấy lẽ vô Đạo hiển nhiên của Chánh Trị Sự, thì
Thông Sự đặng phép can gián sửa lỗi; nếu đã nhiều phen mà Chánh Trị Sự chẳng nghe
và đã có tư tờ về Cửu Trùng Đài mà Cửu Trùng Đài yêm ẩn, thì người đặng phép chạy
tờ về Hiệp Thiên Đài mà cầu xin sửa trị. Người phải chăm nom, binh vực những kẻ
cô thế, bất câu người có Đạo hay là ngoại Đạo, hoặc là bị tai nạn thình
lình, hoặc bị nghèo nàn đói khó, hoặc bị bịnh hoạn cô thân, hoặc phải bị tha
hương lữ thứ, hoặc bị yếu tha già thải, người đặng trọn quyền buộc Phó Trị
Sự phải liệu phương giúp đỡ.
Bất kỳ Chức Sắc nào, dầu lớn nhỏ cũng vậy, khi Thông Sự có gặp việc
cần dùng gắp rút trong khi hành chánh của Đạo thì buộc phải giúp đỡ binh vực.
Những kẻ nào mà Thông Sự đã nhiều phen trách cứ về tánh cường ngạnh, không chịu
giúp sức người trong cơn gắp rút đã đủ chứng cớ thì Hiệp Thiên Đài sẽ xin Hội
Thánh trừng trị…”
Đọc qua đoạn Pháp Chánh Truyền nầy chúng ta vô cùng thích thú bởi vì Thông
Sự là một chức việc cấp thấp nhất nhưng quyền hành rất rộng lớn. Tiếp theo sau
đây là quyền hành vị CTS cũng lớn lao không kém:
Pháp Chánh Truyền ban quyền cho phẩm CTS, có đoạn sau:
“Theo Thánh ý Đức Lý Giáo Tông, thì quyền hành Chánh Trị Sự như vầy: Chánh
Trị Sự phải chăm nom, giúp đỡ sự sanh hoạt của Môn Đệ Thầy đã chịu dưới quyền
người điều khiển, giúp khó, trợ nghèo, coi cả Tín Đồ như em ruột, có quyền xử
đoán, nhứt là việc bất bình nhỏ mọn xảy ra trong phần Địa phận của mình, song
phải tùng lịnh Giáo Hữu và Lễ Sanh cùng người Đầu Họ.
Người Tín Đồ mà phạm luật Đạo, thì Chánh Trị Sự phải khuyên nhủ răn
he, ít nữa là đôi lần, thảng như không biết ăn năn chừa cải, thì tư tờ về Thánh
Thất sở tại cho Giáo Hữu, đặng người đòi đến mà dạy dỗ răn he. Như Giáo Hữu đã
dạy dỗ răn he rồi, mà còn tái phạm, thì Chánh Trị Sự có quyền đệ tờ lên cho người
Đầu Họ mà cầu xin Hội Thánh trừng trị hay là trục xuất, chiếu theo Tân Luật.
Tờ nầy phải làm ra hai bổn, một bổn tư về Hiệp Thiên Đài, và một bổn về Cửu
Trùng Đài.
Như có điều chi sái luật Đạo, mà Chánh Trị Sự đã nhiều phen tư tờ cho Cửu
Trùng Đài, song Cửu Trùng Đài yêm ẩn, thì Chánh Trị Sự đặng phép tư tờ thẳng
lên Hiệp Thiên Đài, kêu nài định đoạt”.
Chúng ta chưa thấy một cơ chế hạ tầng nào được hay đến nhu vậy, CTS là anh
cả trong hương thôn lấy tình thương yêu lo lắng cho chư tín đồ như anh ruột lo
cho em. Cái hay ở chỗ nếu gặp sự im ẩn theo hệ thống hành chánh Đạo thì các vị nầy có quyền tư tờ thẳng về Hiệp Thiên Đài là
cơ quan bảo vệ luật pháp tối cao của Hội Thánh…
Bây giờ xét đến quyền hành và trách vụ của Hội Nhơn Sanh cũng gồm các đại
biểu nhơn sanh từ Lễ Sanh, BTS và chư tín đồ:
2)-Trách vụ tuyển cử:
“Nhơn sanh tuyển chọn Chức sắc của Ðạo trong hàng Tín đồ. Bắt đầu cho chọn
vào phẩm vị Chức việc Bàn Trị Sự rồi mỗi khi thăng cấp, phải có sự công nhận của
quyền Vạn Linh, hay nói trước hết của Hội Nhơn Sanh”.(trích Chánh Trị Đạo, Khai
Pháp Trần Duy Nghĩa)
Chúng ta nên biết Nhơn sanh có mặt ở khắp mọi nơi, cho nên hành tàng của
chư Chức sắc không thể nào qua mắt được nhơn sanh, thảng như vị đó trong quá
trình hành Đạo phạm phải lỗi lầm gì trọng hệ dầu Hội Thánh không biết nhưng thì
khi cầu phong sẽ đưa ra HNS duyệt xét trước, nếu HNS bác thì tên người đó sẽ bị
loại ra khỏi danh sách cầu phong…
3)- Quyền ủy nhiệm quyền hành:
“Thường những quyền nào trong nền Chánh Trị Ðạo đã khuyết mà không người
thay thế, vì nó có tánh cách quan hệ, cơ quan Chánh trị trao cho Hội Nhơn Sanh
để Hội nầy giao lại cho người nào và trọn ủy nhiệm cho người đó hành sự.
Ví dụ như: Quyền thống nhứt Chánh Trị Ðạo thuộc về Ðầu Sư mà trong Ðạo khuyết
phẩm Ðầu Sư nên Hội Nhơn Sanh năm Mậu Dần (1938) ủy nhiệm quyền thống nhứt cho
Ðức Hộ Pháp cầm cho tới ngày nào có Ðầu Sư chánh vị”.
4)-Xem xét công việc đã thi hành và kết quả của nó:
“Mỗi năm, kỳ Ðại Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh trình bày công việc của mình sắp
sửa làm, đang làm hoặc đã làm, và trình bày kết quả của nó giữa Hội và sẽ được
Hội Nhơn Sanh thừa nhận hay là khong”.(trích Chánh Trị Đạo)
5)-Thể thức dân chủ trực tiếp:
Mỗi năm đầu tháng chạp âm lịch thì vị Nghị Trưởng HNS sẽ gởi chương trình
nghị sự xuống Châu Đạo, và vị Khâm Châu Đạo sẽ tổ chức HNS trong tỉnh mình gồm
tất cả Đầu Tộc Đạo, tất cả CTS, tất cả PTS, tất cả TS để bàn thảo các vấn đề
nêu ra rồi đúc kết quyết định của tỉnh nhà sau đó giao cho chư vị nghị viên
mang về HNS ở Tòa Thánh. Đây có thể nói là hình thức dân chủ trực tiếp có thể
phản ảnh nguyện vọng của nhơn sanh khắp nơi không thiếu nơi nào dầu xa xôi nhất…
Một nền dân chủ quá hay…
6)-Nền dân chủ hướng thượng:
Hội Nhơn Sanh đưa ra những luật lệ chìu theo phàm ý, dục vọng của nhơn
sanh. Sau đó dâng lên Hội Thánh, và Hội Thánh sẽ lọc lừa, sửa đổi lại các điều
nhơn sanh đưa ra để phù hợp với Thánh chất. Sau cùng trình lên Thượng hội và
Thượng Hội sẽ duyệt lại lần nữa để chắc rằng luật lệ ấy khong rời xa Thiên ý…
Cho nên chúng ta có thể nói luật lệ Cao Đài theo thể thức dân chủ nhưng là
nền dân chủ hướng thượng…Cho nên xã hội sẽ luôn tiến triển theo chiều hướng đạo
đức chớ khong bị sa đọa tội lỗi…
7)-Quyền Vạn Linh ngang bằng quyền Chí Tôn:
Quyền Vạn Linh là quyết định chung của ba Hội: Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh và
Thượng Hội. Còn quyền Chí Tôn tại thế Thầy ban cho hai vị Giáo Tông và Hộ Pháp
hiệp lại. Đức Chí Tôn dạy tiếp:
“…quyền-hành Chí-Tôn của Thầy đặng trọn-vẹn khi Giáo-Tông
cùng Hộ-Pháp hiệp một . Còn cả nhơn-loại thì là quyền lực Vạn-linh.
Quyền-hành Chí-Tôn của Thầy, duy có quyền-hành Vạn-linh đối-phó mà thôi”.
Đây là nói chung toàn cả nhơn loại, còn nói riêng trong phạm vi một quốc
gia, nếu áp dụng theo thể chế Cao Đài thì quyền hành của toàn dân ngang bằng
với quyền hành của vua hay nhà cầm quyền. Như vậy sẽ không còn giai cấp thống
trị và kẻ bị trị. Đây là điều nhức nhối xưa nay người ta đi tìm kiếm một thể chế
công bằng không còn cảnh người bốc lột người, thì nay Đức Chí Tôn đã đem đến
cho nhân loại điều đó…
7-Quyền Thống Nhất của Đầu Sư.
Trong Pháp Chánh Truyền chú giải phần quyền hành Đầu Sư:
“QUYỀN THỐNG NHỨT: Khi minh thệ rồi, Đầu Sư đặng cầm quyền luôn cả và
Chánh Trị cùng Luật Lệ .
Nhờ quyền lớn lao này; Đầu Sư sẽ có đủ thệ lực mà ngăn ngừa tà quyền hại Đạo.
Thảng gặp cơn nguy biến mà ba Chánh Phối Sư không đủ sức chống ngăn, thì Đầu Sư
đặng dùng quyền thống nhứt ấy mà điều khiển Hội Thánh. Cả Chức Sắc Cửu Trùng
Đài và Hiệp Thiên Đài phải phục mạng, dầu cho Giáo Tông và Hộ Pháp cũng phải vậy”.
Nghĩa là khi bình thường Đầu Sư phải tùng lịnh của Giáo Tông và Chưởng Pháp
mà hành sự, nhưng khi cầm Quyền Thống Nhứt thì Người có toàn quyền quyết định
(sau khi minh thệ và được Giáo Tông và Hộ Pháp chấp thuận).
Trong quyển Chánh Trị Đạo của Ngài Khai Pháp có giải nghĩa về Quyền Thống
Nhứt như sau:
“Trong Chánh Trị Ðạo tuy rằng tôn trọng dân quyền một cách đặc biệt, không
phải là không độc tài.
Trong buổi loạn Ðạo mà GIÁO TÔNG và HỘ PHÁP phản khắc nhau, không thể gì nắm
vững nền Chánh Trị Ðạo cho khỏi xáo trộn, hoặc vì tà quyền lẩn lộn, thì GIÁO
TÔNG và HỘ PHÁP ủy nhiệm cho ÐẦU SƯ cầm quyền thống nhứt Chánh Trị Ðạo, nghĩa
là nắm cả chánh trị và luật lệ trong tay, tự do sử dụng, tùy nghi thế nào để dẹp
yên mối loạn. Khi đó GIÁO TÔNG và HỘ PHÁP cũng phải cúi đầu vâng mạng lịnh của
quyền thống nhứt. Khi hết loạn thì ÐẦU SƯ phải giao quyền thống nhứt lại cho
GIÁO TÔNG và HỘ PHÁP”.
8-Đức Hộ Pháp chưởng quản Nhị Hữu Hình Đài.
Tình hình Đạo rối loạn từ năm 1933, một số các vị chức sắc cao cấp tổ chức
Hội Vạn Linh tại Tòa Thánh nhằm đánh đổ Đức Quyền Giáo Tông nhưng bất thành,
sau đó đến giữa năm 1934, hai ông quyền Đầu Sư Thượng Tương Thanh và Ngọc Trang
Thanh về Thánh Thất An Hội Bến Tre lập Ban Chỉnh Đạo…
Tình hình còn đang gay go thì đến ngày 13-10-Giáp Tuất (1934) Đức Quyền Giáo Tông đột ngột đăng tiên. Lễ an
táng nhập bửu tháp vào ngày 26-10-Giáp Tuất, cũng trong ngày nầy Hội Thánh lưỡng
đài họp phiên đặc biệt giao cho Đức Hộ Pháp đảm nhận luôn quyền Giáo Tông (phần
xác) của Đức Quyền Giáo Tông vừa đăng tiên tức là chưởng quản luôn Cửu Trùng
Đài.
Quyết định nầy của Hội Thánh lưỡng đài sau đó được Đức Lý chấp thuận qua
bài thi:
Hộ giá Chí Tôn trước đến giờ.
Pháp luân thường chuyển máy
Thiên cơ,
Chưởng quyền Cực Lạc phân ngôi
vị,
Quản xuất càn khôn định cõi bờ.
Nhị kiếp Tây Âu cầm máy Tạo,
Hữu duyên Đông Á nắm Thiên thơ,
Hình hài thánh thầ chừ nên tướng,
Đài trọng hồng ân gắng cậy nhờ.
Bài thi khoán thủ các chữ đầu câu họp lại thành: Hộ Pháp Chưởng Quản Nhị Hữu
Hình Đài. Từ đó Đức Hộ Pháp dùng danh xưng nầy trên các văn kiện ban hành.
Sau đó, bởi vì không còn ba vị Đầu Sư và trong tình hình loạn Đạo. (hai vị
Đầu Sư Thượng Tương Thanh và Ngọc Trang Thanh tách rời Tòa Thánh còn vị Đầu Sư
Thái Thơ Thanh thì về nơi tư gia an dưỡng), nên đến năm 1938, Hội Nhơn Sanh năm
Mậu Dần (1938) đã ủy nhiệm quyền thống nhứt của chư vị Đầu Sư cho Ðức Hộ Pháp cầm
cho tới ngày nào có Ðầu Sư chánh vị.
Như vậy thời kỳ nầy Đức Hộ Pháp nắm luôn quyền Giáo Tông và Quyền Thống Nhứt
của ba vị Đầu Sư. Và Đức Lý Giáo Tông vẫn còn cầm quyền Giáo Tông Thiêng Liêng.
9-Vấn đề đối phẩm.
Pháp Chánh Truyền chú giải, phần quyền hành Chánh Phối Sư có đoạn:
“Trong Cửu Trùng Đài có Đầu Sư thì đối với phẩm Địa Tiên, Chưởng Pháp thì đối
với phẩm Nhơn Tiên, Giáo Tông thì đối với phẩm Thiên Tiên: Tam Trấn Oai Nghiêm
thay quyền Phật vị tại thế nầy. Ấy vậy, các Đấng ấy đối phẩm cùng các Đấng Trọn
Lành của Bát Quái Đài. Giáo Tông giao quyền cho Đầu Sư, Đầu Sư lại phân quyền
cho Chánh Phối Sư, lập Đạo đặng độ rỗi nhơn sanh; cũng như Hộ Pháp giao
quyền cho Thượng Sanh và Thượng Phẩm; còn Chánh Phối Sư và Phối Sư đối phẩm
Thiên Thánh, Giáo Sư đối phẩm Nhơn Thánh, Giáo Hữu đối phẩm Địa Thánh, Lễ Sanh
đối phẩm Thiên Thần, Chánh Trị Sự, Phó Trị Sự và Thông Sự đối phẩm Nhơn Thần,
Chư Tín Đồ đối phẩm Địa Thần. Ấy vậy, các vị ấy đối phẩm vào hàng Thánh của
Bát Quái Đài là cầm quyền lập Đạo”.
Tuy nhiên, người chức việc, đạo hữu muốn được đối phẩm phải được Hội Thánh
công nhận và làm tròn trách vụ của mình. Ngoài ra người chức sắc Đại Đạo còn phải
được Quyền Chí Tôn phê chuẩn. Trước năm 1975, việc cầu phong vào hàng chức sắc
CTĐ do Đức Lý Giáo Tông phê chuẩn, còn chức sắc HTĐ và Phước Thiện do Đức Hộ
Pháp phê chuẩn.
Như vậy ngày nay nơi Hải ngoại chúng ta công cử BTS để hành Đạo nhưng chưa
được Hội Thánh (đúng chơn truyền) công nhận thì việc đối phẩm cũng không chắc
được. Và các chức sắc chưa được cơ bút chấm phong thì cũng vậy…
10-Vấn đề Tịch Đạo.
Tịch Đạo nêu lên Thánh danh của chư chức sắc CTĐ, mỗi đời Giáo Tông thì
dùng Thánh danh khác nhau để phân biệt từng thời kỳ mỗi vị Giáo Tông.
Đức Chí Tôn giáng cơ ban cho Tịch Đạo nam phái:
Thanh Đạo tam khai thất ức niên,
Thọ như địa huyển thạnh hòa Thiên.
Vô hư qui phục nhơn sanh khí,
Tại vạn cổ đàn chiếu Phật duyên.
Và Tịch Đạo Nữ phái:
Hương Tâm nhứt phiến cận Càn Khôn,
Huệ đức tu chơn độ dẫn hồn.
Nhứt niệm Quan Âm thùy bảo mạng,
Thiên niên đẳng phái thủ sanh tồn
Về Tịch đạo, Pháp Chánh Truyền chú giải phần quyền hành Nữ Đầu Sư có giải
thích về Tịch Đạo như sau:
“Đương đời này của Đức Lý Giáo Tông, thì Nam lấy chữ "THANH" Nữ lấy
chữ "HƯƠNG" làm tịch, tức là cả Đạo Hữu Nam Nữ từ Tín Đồ chí Thiên
Phong đều trong đời Đức Lý Giáo Tông hành chánh đứng vào tịch Thanh, Hương. Qua
đời Giáo Tông khác thì Nam sẽ lấy chữ "Đạo" Nữ chữ "Tâm". Rồi
cả chư Đạo Hữu Nam Nữ sẽ lấy Tịch: Đạo, Tâm; như vậy nối truyền hoài cho hết
Tịch Đạo thì Thầy sẽ giáng cơ cho Tịch Đạo khác nữa. Lớn nhỏ, sau trước nhờ
chữ Tịch Đạo ấy mà phân biệt.
Tức là mỗi chữ trong hai bài thi trên tương ứng với một Tịch đạo, mỗi bài
thi gồm 28 chữ, vậy trải 28 đời Giáo Tông mới hết, và Đức Chí Tôn sẽ giáng cơ
ban cho Tịch Đạo tiếp theo…
11-Nếu áp dụng luật công cử thì còn cầu cơ bút không ?
Pháp Chánh Truyền chú giải về luật công cử chư chức sắc CTĐ nam nữ như sau:
“Cả Chức Sắc Cửu Trùng Đài Nam Nữ, đều phải thọ phong nơi Hiệp Thiên Đài hoặc
bởi cơ bút hoặc bởi khoa mục hoặc bởi công cử.
Nên khi công cử phải có mặt Chức Sắc Hiệp Thiên Đài, giữ lẽ công bình cho
khỏi điều tư vị, lại còn có phương thế hỏi Đức Giáo Tông cùng Thầy, coi người đắc
cử có phải chánh vị hay chăng? nên trước khi thọ sắc phải do nơi Đức Giáo
Tông cùng Thầy mới đặng”.
Chúng ta nên để ý câu cuối: “trước khi thọ sắc phải do nơi Đức Giáo Tông
cùng Thầy mới đặng”, tức là sau khi công cử phải cầu cơ bút để Đức Lý Giáo
Tông hoặc Đức Chí Tôn chấp thuận mới được…
12-Phần kết:
Pháp Chánh Truyền là bộ hiến pháp do chính Đức Chí Tôn và
Đức Lý ban cho. Sự phân quyền phân nhiệm giữa các cơ quan, các phẩm trật nhằm
thực hiện được: luật thương yêu và quyền công chánh. Một xã hội thực hiện
được điều nầy sẽ tốt đẹp biết bao.
Pháp Chánh Truyền áp dụng nguyên tắc Trời người hiệp nhứt
hay Quyền Vạn Linh hiệp nhứt cùng Quyền Chí Linh, loài người tiến hóa thuận
theo Thiên ý thì thế giới sẽ thăng hoa theo chiều hướng tốt đẹp chớ không còn
sa đọa tội lỗi nữa…
Sau cùng chúng tôi xin mượn lời thyết Đạo của Đức Hộ Pháp
để kết luận bài nầy:
“...Bây giờ nhơn loại đương chạy kiếm chủ quyền, chủ quyền ấy dầu nó thế
nào cũng không thể tồn tại được. Vì cớ cho nên Đức Chí Tôn đến, Đức Ngài nói:
Phương pháp tạo quyền của nhơn loại không thể gì bền vững được, Ta coi các người
đập phá tan tành hết; Ta đến cho lại, Ta chỉ đường cho.
Đường Đức Chí Tôn chỉ là con đường
Pháp Chánh vậy. Ngày giờ nào trên mặt địa cầu nầy : quốc gia, xã hội, nhơn quần
biết tìm chủ quyền đặc sắc vĩnh cữu, công chánh; tức phải đồ theo Pháp Chánh của
Đạo Cao Đài, tạo hình tướng Thánh Thể quốc gia, có lẽ ngày giờ đó Thiên hạ mới
thấy chủ quyền của Đạo Cao Đài định thật quyền cho quốc gia và toàn thể nhơn loại...
Ấy vậy ngày giờ nào nhơn loại
trở lại con đường đạo đức đặng giải kiết, gầy dựng phương pháp sống mới, sống
vinh quang sống ôn tồn hạnh phúc. Ngày giờ nào tiêu diệt được quả kiếp hung tàn
trở lại con đường đạo đức , ngày giờ ấy quốc gia mới yên ổn, ngày giờ ấy thiên
hạ mới hưởng được hồng ân đặc biệt của Đức Chí Tôn ban cho”.(Trích Con Đường
Thiêng Liêng Hằng Sống, Đức Hộ Pháp thuyết tại Đền Thánh đêm mùng 8 tháng 10
năm Mậu Tý (11-1948)
* Quang Thông.
(8-2021)