Nhân kỷ niệm đêm Giáng Sinh năm 1925 -2024, và ngày 18/11/1926. Hai dấu mốc quan trọng của ngày Khai Đạo, và công bố Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ xuất hiện tại thế gian. Đồng Đạo hãy hướng lòng mình tri ân dòng chảy miên trường của cội nguồn Đạo. Hơn hết, đây cũng là lời kêu gọi sự tỉnh thức những ích kỷ và sai lầm, để cùng nhau hướng tới hòa hợp, buông bỏ những oán hận, và trách nhiệm với lịch sử nhân loại.
1 - Lịch
sử hình thành Đạo Cao Đài và phát triển.
Triết lý của đạo Cao Đài dựa trên
nguyên lý Tam
Giáo Quy Nguyên, Ngũ Chi Phục Nhất, kết hợp hài hòa giữa
những tôn giáo lớn:
Khổng giáo, Đạo
giáo, Phật giáo, và Thiên chúa.
Ngũ Chi Đại Đạo năm
con đường tâm linh:
Nhân đạo, Thần
đạo, Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo.
Triết lý Đạo Cao Đài gắn bó sâu
sắc với tín ngưỡng dân tộc Việt Nam, vốn đã biết thờ Trời Đất từ thời Hùng
Vương, hơn 5.000 năm trước. Triết lý phổ quát của Đạo Cao Đài vì tình yêu
thương nhân loại đại đồng, phục vụ hạnh phúc đồng khổ với nhân loại, không phân
biệt màu da sắc tộc, văn hóa, ngôn ngữ, xã hội, vì mưu cầu thế giới hòa bình.
2 - Hành
Trình Truyền Bá Đạo Cao Đài.
Trước năm 1975, Đạo Cao Đài phát
triển rực rỡ, với hơn 5 triệu tín đồ, trở thành tôn giáo lớn thứ ba tại Việt
Nam (theo thống kê của Việt Nam Cộng Hòa). Trong giai đoạn này, Đạo xây dựng hệ
thống hành quyền, phát triển giáo lý, và khởi lập nhiều công trình giáo dục đại
chúng. Tuy nhiên, từ năm 1975, sau khi chế độ Cộng sản lên nắm quyền, Đạo Cao
Đài đối mặt với nhiều thách thức lớn. Tự do tín ngưỡng bị hạn chế, việc truyền
bá đức tin trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Sự kiểm soát khắt khe của nhà nước
khiến đạo bước vào những giai đoạn bế tắc. Dù vậy, tinh thần Đạo Cao Đài
không ngừng lan tỏa. Từ một nền móng nhỏ bé tại Việt Nam.
Sau ngày 30/4/1975. Trên thế giới
xuất hiện cộng đồng Tín đồ Cao Đài, hơn 57.000 người, có mặt khắp năm châu lục.
Người Tín đồ Cao Đài tiếp tục duy trì văn hóa Cao Đài, tạo thành sức sống mãnh
liệt, hội nhập thành công, mở ra cho chính mình những kỳ tích quốc tế.
3 - Lời
Kêu Gọi Tỉnh Thức.
Đạo lịch 1/4 kỷ nguyên 21, Đại
Đạo tròn Đệ Nhất Bách Niên (100 năm). Cộng đồng Tín đồ Cao Đài cùng nhìn lại ý
nghĩa của lòng tin và trách nhiệm phục vụ đồng sinh, phụng sự Đại Đạo. Lịch sử
là tấm gương soi, nhắc nhở đồng sinh cộng hưởng giá trị gắn kết, yêu thương và
bao dung, buông bỏ ích kỷ, và oán hận, bởi tinh thần người Tín đồ Cao Đài có
đầy đủ tố chất xây dựng tương mai sau vì Đại Đạo. "Đời người ngắn
ngủi", nhưng Đạo lý là vô biên. Hãy sống để gieo yêu thương, và để lại một
di sản vì hạnh phúc, hòa bình cho nhân loại.
Tuy nhiên người viết xin phân
tích năm (5) giai đoạn lịch sử của Đạo Cao Đài để làm chứng tích, sau
ngày 30/4/1975. Đạo Cao Đài bị cai trị, bởi thế quyền chế độ Cộng sản
Việt Nam:
3.1 - Giai đoạn 1975-1980: Sau khi
miền Nam Việt Nam, bị Cộng sản thôn tính. Mở đầu ngày 30/4/1975. Cộng
sản thôn tính miền Nam Việt Nam, tự gọi là ngày thống nhất, nhưng đồng bào cả
nước không hế có sự hài lòng, bởi xem đây là hình thức Cộng sản đô hộ Việt Nam.
Hiện nay, Đức tin Đạo Cao Đài,
cùng với những tôn giáo bạn đồng lụy chung cảnh ngộ không hay gặp phải. Từ
các Triều đại Quân chủ, đến Pháp thuộc, qua nền Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa chưa
hề có tình trạng quản lý Đức tin như chế độ Cộng sản Việt Nam. Lần đầu
tiên, Đức tin phải thuần phục chính quyền Cộng sản Việt Nam. Dưới áp lực của
chính quyền theo chính sách quản lý tôn giáo, và kiểm soát chặt chẽ, mọi sinh
hoạt tôn giáo, chính phủ không công nhận độc lập, tất cả đều trực thuộc Ban Tôn
Giáo Chính Phủ, và Mặt Trận Tổ Quốc VN, xem tôn giáo như một hội đoàn quần
chúng. Ngày 01/03/1979. Chính quyền Cộng sản ban hành Ðạo Lịnh số
01/HT-ÐL. Bức tử Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, Tòa Thánh, Tây Ninh. Chế độ hiện hành
tự trở thành trái phá, đẩy lùi Đạo Cao Ðài vào quên lãng, và thần phục đảng
Cộng sản vô điều kiện. Nhà nước tự chà đạp lên Đạo Cao Ðài để dành độc quyền
kiểm soát Đại Đạo hầu phá vỡ chân lý đồng thuận Ðạo-Đời, cắt đứt mọi liên hệ
quyền sống, tình cảm giữa tín đồ với nhau.
Cộng sản độc trị, xây dựng nhiều
nhà tù, và trại lao cải theo điều 4 của Hiến pháp Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam, "Giai cấp vô sản phải tiêu diệt các giai cấp
khác". Đảng Cộng sản khai tử Đạo Cao Ðài, the Ðạo Lịnh số 01:
"Các hoạt động về chính trị đạo từ trung ương Tòa Thánh đến địa phương, kể
từ nay chấm dứt hoàn toàn".
Từ đó những cơ sở Đạo, thuộc
quyền trưng dụng của nhà nước, tịch thu toàn bộ tài sản, và đóng cửa niêm phong
những cơ sở như sau:
* Hiệp
Thiên Ðài:
- Văn phòng Hiệp Thiên Đài.
- Pháp chánh trung
ương, và Pháp chánh địa phương.
- Ban Kỷ Luật Hiệp Thiên
Ðài.
- Ban Thế Ðạo.
- Ban Ðạo Sử, v.v..
* Cửu
Trùng Ðài:
- Tòa Nội Chánh.
- Cửu Viện Hành Chính Nam-Nữ,
và cơ sở trực thuộc.
- Sở Quản Thủ Thánh Ðịa.
- Ban Huấn Ðạo.
- Ban Giám Ðốc Hạnh Ðường.
- Ban Kiểm Soát Hỗn Hợp Tài Chính.
- Ban Vật Tư.
- Ban Tiếp Tân.
- Cơ Thánh Vệ, và các Ban
Trực Thuộc.
- Cơ Bảo Thể.
- Văn Phòng Ðường Nhơn.
- Văn Phòng Tần Nhơn.
- Cai Quản Tà Mun.
- Hội Thánh Ngoại Giáo.
- Văn Phòng Kim Biên Tông Ðạo.
- Văn Phòng Trung Tông Ðạo.
- Văn Phòng Bắc Tông Ðạo.
- Dưỡng lão Hàm phong.
- Hạnh Đường.
- Khâm Thành Thánh Ðịa.
- Khâm Trấn Ðạo.
- Khâm Châu Ðạo.
- Đầu Tộc Ðạo.
- Ðầu Phận Ðạo.
- Ban Trị Sự Nam-Nữ.
- Ban Tứ Vụ Thánh Thất.
- Trưởng thập nhị gia.
- Nông vụ địa phương.
- Nông vụ tự túc.
* Phước Thiện:
- Hội Thánh Phước Thiện Nam-Nữ
& cơ sở trực thuộc.
- Ban Kỷ luật Phước Thiện.
- Ban Trật Tự.
- Ban Kiến Trúc Tòa Thánh.
- Ban Cai Quản Bộ Nhạc.
- Ban Cai Quản Bộ Lễ.
- Ban Cai Quản Ðồng Nhi,
Tổng Trào.
- Ban Cai Quản Nhà Thuyền
Bát Nhã.
- Ban Vận Ðộng Xây Dựng Vạn
Pháp Cung.
- Ban Tổng Quản Trí Giác Cung.
- Ban Kỳ Lão Phạm Môn (Trí
Huệ Cung-Phạm Nghiệp)
- Quản Châu Thành Thánh Ðịa.
- Quản Trấn Ðạo.
- Quả Châu Ðạo.
- Quản Tộc Ðạo.
- Quản Phận Ðạo.
- Ban Cai Quản Phước Thiện
Nam-Nữ.
- Các sở Lương Ðiền, Công
Nghệ, Thương Mại .
- Ban Lễ Viện Ðiện Thờ Phật
Mẫu địa phương.
- Xưởng may y phục Đạo.
- Nhàn Du khách sạn, v.v..
* Phổ Tế:
Phổ Tế Trung Ương, và Ðịa phươn.
- Hội Thánh Hàm Phong, v.v..
* Hội đoàn
dân sự Cao Ðài:
- Việt Nam Phục Quốc Hội.
- Hội Thương Phế Binh Cao Ðài.
- Hòa Bình Chung Sống.
- Hòa Bình Giáo Hội.
- Hòa Bình Bến Hải.
- Hòa Bình Thánh Xa Thơ.
- Ðoàn Trung Kiên Ðại Ðạo.
- Ðại Ðạo Thanh Niên Hội.
- Bá Nghệ Ðoàn.
- Ðoàn Hướng Ðạo Cao Ðài,
v.v..
* Cơ sở hạ
tầng:
- Cơ Quan Phát Thanh Giáo Lý.
- Báo chí.
- Thư viện.
- Đại Học.
- Trung học.
- Tiểu học.
- Cô nhi viện, v.v..
Nhà nước Cộng sản Việt
Nam lấy làm hãnh diện, và hài lòng khi tịch thu hết tài sản của Đạo Cao
Ðài, và tiếp tục tảo thanh triệt tiêu các đoàn thể của Tín đồ, mượn cớ an ninh
nhà nước, hối hả thành lập nhiều trạm bẩy phản cách mạng, vì mục đích thanh
trừng và hành quyết những Tín đồ hiếu Đạo, hay cho đi lao cải, bịt miệng của
những tiếng nói trung thực, mọi phát biểu ý kiến, và nguyện vọng xem như bị
tước đoạt quyền sống làm người của Tín đồ Cao Đài!
3.2 - Đạo
Cao Đài đấu tranh với chính quyền:
Trong những năm đầu sau khi
thống nhất, Đạo Cao Đài gặp phải sự đàn áp mạnh mẽ. Chính quyền Cộng sản
không chấp nhận Đại Đạo giữ nguyên truyền thống tổ chức theo cấu trúc độc lập.
Cộng sản yêu cầu tất cả các tôn
giáo phải hoạt động dưới sự kiểm soát của Mặt Trận Thống Nhất Việt Nam do nhà
nước Cộng sản quản lý. Cộng sản xem những tôn giáo như một hội đoàn do Ban Tôn
Giáo Chính Phủ quản lý, và nhà nước quy định rõ mục tiêu Đạo Cao Đài phải
thay đổi nghi lễ, giáo lý, Hạnh Đường đào tạo Chức Sắc, tu viện, phân tích
thông tin, giao tiếp, phân công nhiệm vụ, điều hành, giám sát hoạt động trong
Đạo Cao Đài đều thông qua Ban Tôn Giáo Chính Phủ, dưới sự chỉ đạo của Thứ
trưởng Bộ Nội Vụ. Họ làm luật giám sát tín ngưỡng, tất cả tôn giáo
phải tuân theo tư tưởng người Cộng sản. Do đó Ban Tôn Giáo Chính Phủ trở
thành bộ máy khủng bố đức tin có hệ thống.
Nếu như mọi tôn giáo có liên hệ với
nước ngoài đều phải lấy quyết định từ Ban Tôn Giáo Chi Phủ. Đạo Cao
Đài hoàn toàn lệ thuộc trên cái gông cùm này! Sở tài chính tỉnh Tây
Ninh giám sát thùng Công quả tại Tòa Thánh, và Thánh Thất Thánh Địa. Trại đường
Tòa Thánh Tây Ninh do sở Lương Thực giám sát, mọi sinh hoạt tự động bế tắc.
3.3 - Sự hợp
nhất Tòa Thánh và Tín đồ:
Để đối phó với sự kiểm soát của
nhà nước, các chi phái Đạo Cao Đài tại miền Nam đã bị ép buộc phải hợp nhất
thành một Hội Thánh do nhà nước chỉ định. Hai mươi bảy (27) Chi phái Cao Đài
trước đây có sự phân chia rõ rệt về giáo lý, và điều này khiến cho sự hòa hợp
trở nên khó khăn. Tuy nhiên, nhiều Tín đồ và các Chức Sắc trong Đạo Cao Đài
không chấp nhận sự điều hành của chính quyền, vẫn duy trì các hoạt động trong
khuôn khổ độc lập, và tự trị theo truyền thống của Đại Đạo.
2 - Giai đoạn
1980-1990: Chính sách tôn giáo của Đảng Cộng sản:
Trong suốt những năm 1980, đảng
Cộng sản Việt Nam thực hiện các chính sách đàn áp tôn giáo nghiêm ngặt hơn, đặc
biệt là đối với các tôn giáo có ảnh hưởng chính trị mạnh mẽ như Đạo Cao Đài,
Phật giáo, và Đạo Thiên Chúa.
2.2 - Sự
đàn áp và kiểm soát:
Các nhóm tôn giáo Cao Đài không
được phép hoạt động tự do, và phải chịu sự giám sát, kiểm tra thường xuyên từ
phía chính quyền. Các tổ chức Cao Đài ngoài Hội Thánh nhà nước coi là bất hợp
pháp, và những Chức Sắc lãnh đạo Tòa Thánh hay Thánh Thất hoặc Tín đồ hoạt động
chống đối nhà nước Cộng sản VN, có thể bị bắt cho đi ngồi tù hoặc chịu các
trừng phạt khác nhau, và tịch thu tài sản của Tín đồ Cao Đài.
2.3 - Đóng
cửa những Thánh Thất, và đình chỉ hoạt động:
Trong giai đoạn, chính quyền Cộng
sản bức tử Đạo Cao Đài đóng cửa nhiều Thánh Thất, đình chỉ các hoạt động, và
nhúng tay vào hành quyền của Đạo, tự tay lấy quyết định đề cử phong Chức Sắc
cho những kẻ có công với đảng Cộng sản, tệ nạn buôn bán phong Chức Sắc xem là
thông lệ ăn chia với đảng Cộng sản ở khắp mọi nơi trong cửa Đạo Cao Đài. Tất
nhiên, có một số Tín đồ Cao Đài tự tách ra khỏi Tòa Thánh Tây Ninh, tự tổ chức
kín đáo những ngày lễ nghi không công khai.
Cho thấy đảng Cộng sản
thực hiện cuộc trả thù đức tin, và họ thành công. Nhìn xa hơn chính họ trả thù
dân tộc VN, bằng cách giết người càng nhiều càng tốt. Tịch thu mọi phương tiện
đời sống của toàn dân, bởi vậy họ cần đàn áp người dân qua mọi hình thức, áp
lực cuộc sống của đồng bào xem ra thường nhật, và khủng bố bằng lao động, cải
tạo, lao tù, quản lý tư duy, và đức tin,v.v...
3 - Giai
đoạn 1990-2000 - Những cải cách, và có một số thay đổi trong chính
sách:
Đến cuối thập niên 1980, và đầu
thập niên 1990, Cộng sản Việt Nam bắt đầu thực hiện các cải cách kinh tế, mở
cửa và thực hiện chính sách đổi mới. Trong bối cảnh đó, chính phủ cũng phải
thay đổi một số chính sách về tôn giáo, mặc dù vẫn duy trì sự kiểm soát chặt
chẽ.
3.1 - Khởi
sắc một phần:
Đạo Cao Đài bắt đầu có chút
"nới lỏng" trong việc tổ chức các hoạt động tôn giáo, nhưng vẫn dưới
sự giám sát chặt chẽ của nhà nước. Mặc dù vậy, các tín đồ và chức sắc Cao Đài
vẫn phải chịu nhiều hạn chế trong việc tổ chức các sự kiện tôn giáo công khai,
và chỉ có những người đứng đầu giáo hội chính thức do nhà nước công nhận mới
được phép hoạt động công khai.
Cờ đảng Cộng sản treo trên cờ Đạo
Cao Đài, thể hiện tinh thần chế độ quản lý giáo hội nhà nước.
3.2 - Chế
độ giáo hội nhà nước:
Chính phủ chỉ công nhận một giáo
hội Cao Đài duy nhất (Giáo hội Cao Đài Tây Ninh), điều này hạn chế quyền tự do
của các nhóm Cao Đài khác, và làm cho các tín đồ thuộc các chi phái Cao Đài
khác gặp khó khăn trong việc thực hành đức tin của mình.
4 . Giai đoạn
2000 đến nay: Tự do tôn giáo và những thách thức.
Trong những năm đầu thế kỷ 21,
với sự phát triển của xã hội và quốc tế, đặc biệt là khi Việt Nam gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007, chính quyền Cộng sản Việt Nam đã
phải đối mặt với áp lực từ cộng đồng quốc tế về quyền tự do tôn giáo.
4.1 - Các
cải cách pháp lý:
Chính quyền Việt Nam đã đưa ra
một số cải cách pháp lý về tự do tôn giáo, bao gồm việc ban hành Luật Tín
ngưỡng, Tôn giáo năm 2004 và sửa đổi trong các năm tiếp theo. Tuy nhiên, các
tôn giáo, trong đó có Đạo Cao Đài, vẫn phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt
của nhà nước, và các nhóm tôn giáo không thuộc giáo hội chính thức vẫn bị coi
là bất hợp pháp.
4.2 - Sự
phát triển, và đối diện với khó khăn:
Mặc dù nhà nước có sự thay đổi
trong chính sách đối với tôn giáo, nhưng Đạo Cao Đài vẫn gặp nhiều khó khăn.
Các tín đồ vẫn phải hoạt động trong phạm vi hạn chế và chỉ có các hoạt động
dưới sự quản lý của nhà nước mới được công nhận. Một số nhóm tín đồ Cao Đài vẫn
giữ quan điểm bảo vệ tự do tôn giáo và đấu tranh cho quyền tự do thực hành đức
tin của mình.
4.3 - Sự
xuất hiện của các nhóm Cao Đài ngoài hệ thống chính thức:
Các nhóm Cao Đài không thuộc giáo
hội chính thức vẫn tiếp tục tồn tại, một số hoạt động ngầm và không được nhà
nước công nhận, nhưng những nhóm này vẫn tồn tại, và duy trì việc truyền giáo
trong các cộng đồng tín đồ.
5 - Hiện trạng
và tương lai.
Hiện tại, Đạo Cao Đài vẫn tồn tại
ở Việt Nam, nhưng hoạt động của Đại Đạo vẫn phải tuân thủ các quy định rất
nghiêm ngặt từ chính quyền. Các giáo hội Cao Đài chính thức, như Giáo hội Cao
Đài Tây Ninh, tiếp tục duy trì mối quan hệ hợp tác với nhà nước, trong khi các
nhóm khác vẫn phải đối mặt với sự đàn áp và thiếu tự do.
Mặc dù có những tín hiệu về việc
cải thiện quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng việc thay đổi chính sách tôn
giáo vẫn còn gặp nhiều khó khăn, và phải đối mặt với những rào cản về chính trị
và xã hội. Tuy nhiên, các nhóm tín đồ Cao Đài trong và ngoài nước vẫn
tiếp tục đấu tranh để bảo vệ quyền lợi tôn giáo của mình.
Nói về sự tranh đấu của Cao Đài
hải ngoại, một tôn giáo được thành lập tại Việt Nam vào năm 1926, luôn gắn
liền với những nỗ lực duy trì và phát triển đức tin, dù trong nước hay hải
ngoại. Với tín đồ Cao Đài ở nước ngoài, "sự tranh đấu" có thể hiểu
theo nhiều góc độ, từ việc gìn giữ bản sắc văn hóa và tôn giáo, đến những hoạt
động vận động cho quyền tự do tín ngưỡng và nhân quyền tại Việt Nam.
Bảo tồn văn hóa
và tín ngưỡng:
Tín đồ Cao Đài ở hải ngoại thường
đối mặt với thách thức duy trì đức tin trong một môi trường khác biệt về văn
hóa, ngôn ngữ, và phong tục. Nhiều người đã cố gắng xây dựng các thánh thất tại
các quốc gia có cộng đồng người Việt lớn, như Hoa Kỳ, Úc, và Canada. Các hoạt
động như tổ chức lễ hội tôn giáo (Đại lễ Vía Đức Chí Tôn, lễ Hội Yến Diêu Trì
Cung), lớp học giáo lý, và phổ biến tài liệu tôn giáo được chú trọng để bảo tồn
niềm tin và truyền thống.
Tranh đấu cho
tự do tôn giáo:
Tín đồ Cao Đài ở nước ngoài cũng
không ngừng lên tiếng về tình trạng hạn chế tự do tôn giáo tại Việt Nam. Sau
năm 1975, tổ chức Cao Đài trong nước gặp nhiều khó khăn khi một số cơ sở bị
quản lý chặt chẽ bởi chính quyền. Cộng đồng hải ngoại đã kêu gọi các tổ chức
quốc tế, chính phủ các nước sở tại, và các tổ chức nhân quyền can thiệp nhằm
đảm bảo quyền tự do thực hành tôn giáo của tín đồ Cao Đài tại Việt Nam.
Vai trò của các
tổ chức Cao Đài hải ngoại:
Nhiều tổ chức Cao Đài hải ngoại
được thành lập để duy trì hoạt động tôn giáo và vận động nhân quyền. Ví
dụ, Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh
Tây Ninh Hải Ngoại là một trong những tổ chức có ảnh hưởng, tập
trung hỗ trợ tín đồ ở hải ngoại và phối hợp với cộng đồng quốc tế để bảo vệ các
giá trị tôn giáo và nhân quyền.
Thách thức
trong cộng đồng hải ngoại:
Dù có nhiều nỗ lực, nhưng tín đồ
Cao Đài hải ngoại cũng đối mặt với những mâu thuẫn nội bộ, đặc biệt liên quan
đến việc diễn giải giáo lý và sự khác biệt trong cách tổ chức các hoạt động tôn
giáo. Một số nhóm chia rẽ do quan điểm khác nhau về cách duy trì truyền thống
hoặc quan hệ với chính quyền Cộng sản Bắc Việt.
Hy vọng và
tương lai:
Dù có nhiều
khó khăn, nhưng tín đồ Cao Đài ở hải ngoại vẫn kiên định với niềm tin của mình.
Với sự phát triển của công nghệ, như truyền thông xã hội, việc kết nối các cộng
đồng tín đồ trên toàn thế giới trở nên dễ dàng hơn, giúp họ củng cố sự đoàn kết
và bảo vệ bản sắc tín ngưỡng.
6 - Kết
luận
Sau ngày 30/4/1975, khi chính
quyền Cộng sản Việt Nam giành quyền kiểm soát toàn bộ miền Nam Việt Nam, một
loạt chính sách và biện pháp đã được triển khai nhằm củng cố quyền lực và định
hình hệ thống chính trị - xã hội theo mô hình của miền Bắc. Những chính sách
này không chỉ tác động sâu rộng đến đời sống kinh tế, chính trị và văn hóa của
người dân miền Nam mà còn gây ra nhiều tranh cãi và hậu quả kéo dài. RIêng đối
với Đaọ Cao Đài, hầu hết chức sắc, chức vị, và tín hữu của Đạo cũng nằm
trong nạn kiếp của CS Bắc Việt.
Sau ngày 30/4/1975, đạo Cao Đài,
một tôn giáo lớn với hàng triệu tín đồ tại miền Nam Việt Nam, cũng phải đối mặt
với những chính sách kiểm soát và đàn áp nghiêm khắc từ chính quyền Cộng sản
Việt Nam. Những biện pháp này nhằm kiểm soát chặt chẽ các hoạt động tôn giáo và
loại bỏ các yếu tố mà chính quyền cho là có nguy cơ đối lập với chế độ mới.
Dưới đây là những chính sách và hành động cụ thể đối với đạo Cao Đài:
* Giải tán Hội Thánh Cao
Đài và kiểm soát tổ chức:
Ngay sau năm 1975, chính quyền
Cộng sản ra lệnh giải tán Hội Thánh Cao Đài tại Tòa Thánh Tây Ninh, cơ quan
lãnh đạo tối cao của đạo. Tất cả quyền hành trong tổ chức đạo Cao Đài bị tước
đoạt và chuyển sang sự kiểm soát của Nhà nước. Những chức sắc không tuân theo
chính sách của chính quyền bị cách chức hoặc trấn áp. Các cơ sở thờ tự, đền
thánh và tài sản thuộc Hội Thánh Cao Đài bị nhà nước quản lý, nhiều nơi bị
chiếm dụng hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng.
* Đàn áp các chức sắc và
tín đồ:
Bắt giữ và giam cầm: Nhiều chức
sắc và tín đồ Cao Đài, đặc biệt là những người thể hiện thái độ phản đối chính
quyền, bị bắt giữ, giam cầm hoặc đưa đi cải tạo. Tuyên truyền chống đối: Chính
quyền tuyên truyền rằng đạo Cao Đài từng hợp tác với chính quyền Việt Nam Cộng
Hòa, do đó coi đây là một thế lực đối lập cần triệt tiêu.
* Kiểm soát hoạt động
tôn giáo:
Các lễ hội, nghi thức tôn giáo và
hoạt động của đạo bị hạn chế nghiêm ngặt. Nhiều nghi lễ truyền thống của đạo
Cao Đài bị cấm hoặc buộc phải thay đổi để phù hợp với yêu cầu của chính quyền.
Các cuộc họp mặt tôn giáo, đặc biệt là những sự kiện lớn tại Tòa Thánh Tây
Ninh, phải được chính quyền phê duyệt trước và đặt dưới sự giám sát chặt chẽ.
- Chia rẽ nội bộ và thành lập tổ chức "quốc
doanh":
Chính quyền thành lập một Hội
đồng Chưởng quản Cao Đài theo mô hình "quốc doanh", đưa những người
trung thành với Nhà nước vào vị trí lãnh đạo. Tổ chức này được Nhà nước công
nhận là đại diện chính thức của đạo Cao Đài, nhưng không được phần lớn tín đồ
thừa nhận. Việc này dẫn đến chia rẽ nội bộ nghiêm trọng trong cộng đồng Cao
Đài, với sự xuất hiện của các nhóm tín đồ không theo sự kiểm soát của chính
quyền, thường được gọi là "Cao Đài độc lập".
- Đàn áp các phong trào đòi
tự do tôn giáo:
Các chức sắc và tín đồ Cao Đài
độc lập, không chấp nhận sự kiểm soát của chính quyền, thường xuyên bị sách
nhiễu, theo dõi, thậm chí bị bắt giam. Một số nhóm Cao Đài độc lập tiếp tục
hoạt động bí mật hoặc kêu gọi quốc tế can thiệp để bảo vệ quyền tự do tôn giáo.
Hậu quả và ảnh hưởng: Các chính
sách đàn áp và kiểm soát khiến đạo Cao Đài suy yếu cả về tổ chức lẫn ảnh hưởng
xã hội. Nhiều tín đồ rời bỏ đạo, trong khi những người còn lại phải thực hành
tôn giáo trong môi trường đầy khó khăn. Tuy
nhiên, một bộ phận tín đồ Cao Đài, đặc biệt là cộng đồng hải ngoại, vẫn tiếp tục
duy trì các giá trị truyền thống và phản đối sự kiểm soát của Nhà nước.
Tóm lại, đạo Cao Đài sau năm 1975
chịu áp lực rất lớn từ chính quyền Cộng sản, giống như nhiều tổ chức tôn giáo
khác ở miền Nam. Dù phải đối mặt với sự đàn áp, một số tín đồ và chức sắc vẫn
kiên trì giữ gìn niềm tin và bản sắc tôn giáo của mình trong bối cảnh đầy khó
khăn.
Trong suốt chiều
dài lịch sử dưới chế độ Cộng sản, Đạo Cao Đài đã trải qua nhiều giai đoạn
khó khăn với chính sách kiểm soát tôn giáo nghiêm ngặt, bao gồm việc đàn áp,
hạn chế các hoạt động truyền giáo, và yêu cầu tổ chức lại các giáo hội tôn
giáo. Tuy nhiên, với những cải cách và sự thay đổi dần dần trong chính sách về
tự do tôn giáo không bình thường. Đạo Cao Đài vẫn tiếp tục tồn tại và tìm cách
phát triển trong môi trường đầy thách thức. Tuy Đạo Cao Đài không còn
cơ hội nào để tuyền bá Đức tin. Nhưng Đại Đạo vẫn là tư duy vô biên của Thượng Đế
lưu truyền đến Thất Ức Niên Dư (700.000 năm). Còn Đời chỉ là khoảnh khắc trăm
năm, hơn thua rồi cũng về đất.
* Ban Biên Tập NỐI BƯỚC.
Paris 27/5/2025.