HÀI NHI KHI SINH RA ÔM HẠT CHÂU MIỆNG NÓI (TÔN GIẢ THI BÀ LA). * Toàn Không.

Quel Monde de Tu. By Huỳnh Tâm.
PHẦN 1: HÀI NHI KỲ LẠ:
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Bấy giờ trong thành Xá Vệ có một Trưởng Giả tên Nguyệt Quang, lập gia đình đã lâu chưa có con, nên thường cầu khẩn trời đất thánh thần, mong có con nối dõi. Một thời gian sau, người vợ có thai, sau hơn chín tháng sinh được con trai đẹp đẽ như màu hoa đào. Nhưng khi đang sinh, hai tay hài nhi ôm hạt châu Ma ni quý giá mà ra, lại vừa sinh ra liền nói:
"Nay tôi muốn bố thí,
Nhà này nếu không của,
Đây ngọc châu vô giá,
Tặng khắp người nghèo khổ".
Người mẹ nghe nói, ngạc nhiên lạ lùng, còn mọi người chung quanh thấy sự lạ chưa từng có, cho rằng sinh ra Ma Qủy, vừa sinh ra đã nói, nên đều sợ hãi bỏ chạy tán loạn! Người mẹ bình tĩnh liền nói kệ hỏi:
"Là Trời hay Càn Thát?
Ma Quỷ hay La Sát?
Là ai tên họ gì?
Nay ta muốn được biết."
 
Hài nhi liền đáp:
"Không Trời chẳng Càn Thát,
Không Quỷ chẳng La Sát,
Là con của cha mẹ,
Là người chớ nghi ngờ."
Phu nhân nghe những lời ấy thì vui mừng, cho rằng “Con mình là Thần đồng”, liền kêu gọi những người bỏ chạy trở lại.
Rồi phu nhân cho mời Trưởng giả đến, và đem việc ấy nói với Trưởng giả.
 
LỜI BÀN:
Chuyện một hài nhi ôm viên ngọc châu Ma Ni khi sinh ra, lại còn phát nói như người lớn, thật là kỳ lạ chưa từng có trên thế gian. Nhưng những gì đã viết trong Kinh đều là sự thật, vì các Kinh Phật đều do 500 vị A La Hán đệ tử của Phật. Là những vị tu hành phạm hạnh chân chính đã đạt qủa Thánh. Tất cả cùng duyệt xét kết tập Kinh Luật Luận, sau khi Phật nhập Niết Bàn vài tháng, thì không thể giả dối, không thể sai sót.
Chúng ta tiếp tục theo dõi đoạn Kinh kế tiếp của câu chuyện.
 
PHẦN 2: BẬC TRÍ VÀ KẺ SI MÊ:   
Sau khi nghe người vợ nói sự việc, Trưởng giả Nguyệt Quang liền nghĩ: “Đây là duyên gì?” Nay ta hãy đem duyên này hỏi Ni Kiền Tử (là ngoại đạo tu khổ hạnh), rồi ông cho bồng đứa nhỏ đi hỏi Ni Kiền Tử, ông trình bày tất cả sự việc xảy ra, Ni Kiền Tử nghe xong bảo:
- Đứa bé này vô phúc, vô ích, nên đem giết đi, nếu để nó sống, ông sẽ bị hao tài tốn của vì nó, và cuối cùng cả nhà sẽ bị chết hết.
 
Trưởng giả nghe mấy lời ấy suy nghĩ: “Ta không có con nên cầu khẩn trời đất thánh thần biết bao năm nay mới có đứa con này, ta chẳng thể giết nó được. Ta sẽ đi hỏi Sa Môn, Bà La Môn xem sự thể thế nào?
Khi ấy, Sa Môn Cù Đàm thành Phật chưa được lâu, mọi người gọi Ngài là Đại Sa Môn; Trưởng giả Nguyệt Quang liền nghĩ: “Ta có thể đem việc này hỏi Đại Sa Môn” Rồi ông cho bế đứa nhỏ đến chỗ Đức Phật. Đang đi giữa đường, ông lại nghĩ: “Nay có Trưởng lão Phạm Chí lớn tuổi thông minh trí tuệ, được mọi người cung kính nể trọng. Ta nên đến chỗ Phạm Chí hỏi hơn là Sa Môn Cù Đàm còn trẻ, học đạo chưa được bao lâu, há có thể biết việc này sao? E rằng không giải quyết được mối nghi của ta, nay ta nên đến hỏi Phạm Chí”.
 
Nghĩ rồi ông bèn quay trở lại. Lúc ấy có một Thiên thần trước kia khi còn sống ở thế gian là bạn với Trưởng giả, biết tâm niệm của Trưởng giả, nên bèn ở trên không nói vọng xuống:
- Này Nguyệt Quang, Trưởng giả nên biết Như Lai ra đời rất khó gặp, Sa Môn Cù Đàm chính là Như Lai, như nước cam lộ đúng thời mới có. Sao ông lại quay về? Hãy tiến lên sẽ được lợi ích lớn, ông nên biết có bốn việc nhỏ nhưng chớ coi thường là: “Khinh Vua còn nhỏ nên bị chết, Coi thường đốm lửa nhỏ, nhưng có thể thiêu rụi cả núi rừng. Không để ý Rồng thần hiện nhỏ, nhưng có thể giáng mưa làm lũ lụt, Người có đạo tuổi tuy nhỏ, nhưng có thể độ người thật vô lường.
Trưởng giả nghe xong, tâm ý mừng rỡ, liền quay lại tiến bước đến chỗ Phật. Trưởng giả cúi lạy rồi đem nhân duyên thưa đầy đủ với Phật. Đức Phật nghe xong bảo Trưởng giả:
- Đứa bé này phúc rất lớn. Đứa bé sau này lớn lên sẽ đem 500 đồ chúng đến chỗ Ta xuất gia học đạo, đắc quả A La Hán. Trong hàng Thanh Văn của Ta, đứa bé này là người phước đức bậc nhất không ai bì kịp.
Trưởng giả nghe Đức Phật nói xong, vô cùng mừng rỡ, rồi thưa:
- Đúng như Ngài nói, chẳng phải như Ni Kiền Tử.
Rồi Trưởng giả lại bạch:
- Cúi xin Thế Tôn và chúng Tỳ Kheo thương xót đứa bé này, nhận lời thỉnh cúng dàng bữa ăn ngày mai của con.
Đức Phật im lặng nhận lời, Trưởng giả biết Đức Phật đã nhận lời, ông liền từ chỗ ngồi đứng dậy cúi lễ rồi lui về nhà, cho người sửa soạn thức ăn thức uống. Tới nửa buổi hôm sau, ông trở lại thỉnh mời Đức Phật cùng chư Tăng tới nhà thụ trai. Sau khi thọ trai xong, Trưởng giả vái lễ trước Phật rồi thưa:
- Con đem hết ruộng vườn nhà cửa tài sản cho hết đứa con, cúi xin Thế Tôn đặt tên cho nó.
Đức Phật bảo:
- Lúc đứa bé mới sinh ra, mọi người đều bỏ chạy, nói nó là Quỷ Thi Bà La. Nay Ta đặt tên nó là Thi Bà La.
Đức Phật thuyết pháp cho vợ chồng Trưởng giả và quyến thuộc, nghe xong đều xin được quy y Phật Pháp Tăng và thụ Ngũ giới; xong, Đức Phật và đại chúng Tỳ Kheo ra về.
 
LỜI BÀN:
Đoạn Kinh trên cho thấy người tu theo ngoại đạo không có trí huệ, nên khi gặp người khác hỏi những vấn đề khó khăn, thì chỉ trả lời theo lối đoán mò, không thể xác thực. Ni Kiền Tử nghe nói đứa bé khi sinh ra ôm bảo châu, lại biết nói và đòi bố thí, thì ngờ rằng đó là Ma Quỷ nhập vào thai mà sinh ra. Nên đã tiên đoán đứa nhỏ sau này sẽ phá hoại hết tiền của tài sản, hại chết hết cả gia đình, và Ni Kiền Tử khuyên nên giết đứa nhỏ để trừ mọi hậu hoạn cho gia đinh. Đây là lời nói của người si mê không biết sự thật nên đã nói bậy vậy.
May thay! Hài nhi có phúc lớn, nên đã khiến Trưởng giả không muốn hại đứa con, và khởi nghĩ đến việc đi hỏi Đức Phật. Lúc đang trên đường đi đến chỗ Phật, Trưởng giả chợt nghĩ tới tuổi trẻ học đạo chưa được bao lâu của Sa Môn Cù Đàm.
Vì vậy, Trưởng giả nghĩ rằng như thế Sa Môn không thể giải quyết được vấn đề, nên ông đổi hướng, để đến chỗ Trưởng lão Phạm chí. Lúc ấy vị Thiên Thần kia biết được ý nghĩ của Trưởng giả, bèn khuyến cáo và Trưởng giả tỉnh ngộ, liền quay lại tiến đến chỗ Phật.
Khi gặp, Đức Phật dùng trí huệ nói chứ không phải là đoán mò nói càn như ngoại đạo, khiến Trưởng giả vô cùng phấn khởi. Chúng ta tiếp tục theo dõi đoạn Kinh kế tiếp.
 
PHẦN 3: PHÚC ĐỨC BẬC NHẤT:
Bấy giờ, Trưởng giả Nguyệt Quang tìm rất nhiều (500) thiếu niên nghèo, cùng lứa tuổi hay ít tuổi hơn để hầu hạ Thi Bà La từ khi còn nhỏ cho tới trưởng thành. Tới năm 20 tuổi, Thi Bà La thưa với cha mẹ:
- Cúi mong cha mẹ cho con được theo Đức Thế Tôn học đạo.
Thi Bà La liền được song thân chấp thuận, vì ông bà Trưởng giả đã biết việc Đức Phật đã thụ ký từ 20 năm về trước rồi, Thi Bà La đem hết các thanh niên đến chỗ Đức Phật và thưa:
- Cúi xin Đức Thế Tôn chấp nhận cho con được nhập đạo.
Đức Phật liền thu nhận Thi Bà La cho làm Sa Môn, được vài ngày Tỳ Kheo Thi Bà La liền thành A La Hán, có đủ Lục thông và Tám giải thoát. Khi ấy 500 thanh niên đồng loạt đến trước Đức Phật xin được làm Sa Môn, tất cả đều được chấp nhận, và chẳng bao lâu, tất cả đều thành A La Hán.
Khi ấy Tôn Giả Thi Bà La cùng 500 Tỳ Kheo trở về làng cũ tại nước Xá Vệ, mọi người đều kính ngưỡng cúng dàng đầy đủ. Ở được ít ngày, Tôn Giả nghĩ: “Nay ở làng mình thật ồn náo phiền toái, ta nên đi du hóa trong nhân gian” Sau khi khất thực tại thành Xá Vệ xong, Tôn giả rời khỏi tịnh xá Kỳ Hoàn cùng với 500 Tỳ Kheo du hóa trong nhân gian. Đi tới đâu cũng được cúng dường đầy đủ từ thức ăn đến áo mặc, thuốc men v.v... vì có các vị Trời báo trước cho thôn xóm rằng: “Nay có Tôn giả Thi Ba La đã đắc A La Hán có phúc đức hạng nhất cùng với 500 Tỳ Kheo đều là bậc Thánh du hóa trong nhân gian sắp đến, chư vị nên cúng dàng, nếu bây giờ không làm, sau hối tiếc vô ích”. Vì vậy, Tôn giả đi tới đâu, nhân dân đều biết trước và sửa soạn thức ăn sẵn sàng nên mọi thứ đầy đủ.
Lúc ấy Tôn giả lại nghĩ rằng:
Chán sự cúng dường nhiều quá, ta nên tìm chỗ nào ở cho mọi người không biết chỗ ta”,     
Rồi Tôn Giả vào sâu trong rừng núi. Chư Thiên lại báo cho từng người trong thôn xóm biết chỗ: “Tôn giả Thi Bà La đang ở núi này rừng kia, hãy đến cúng dàng, nếu không làm, sau này hối tiếc vô ích”. Nhân dân nghe Trời bảo như thế, liền gánh đội thức ăn uống đến tận nơi cúng dường và nói:
- Xin Ngài dừng lại vì chúng con.
Tôn giả du hóa dần dần đến vườn trúc Ca Lan Đà thuộc thành La Duyệt nước Ma Kiệt, cũng được nhân dân cúng dàng đầy đủ các thứ. Lúc ấy Tôn Giả nghĩ: “Ta phải nhập hạ ở phía Tây núi Quảng Phổ để mọi người không thể đến”, rồi Tôn giả dẫn các Tỳ Kheo đi.     
Khi ấy Vua Trời Đế Thích biết được tâm ý Tôn Giả như thế, liền hóa hiện cảnh Chùa, vườn cây hoa lá quả tốt tươi đầy đủ tại chỗ ấy, chung quanh lại có hồ sen thơm trong mát. Vua Trời Thích lại hóa hiện đầy đủ tòa ngồi, giường dây, và dùng cam lộ của Trời để dâng món ăn thức uống.
Hết ba tháng nhập hạ, Tôn giả Thi Bà La lại dẫn 500 Tỳ Kheo đến thành Xá Vệ để được gần gũi Đức Phật. Bấy giờ Tại thành Xá Vệ, Tôn giả Thi Bà La có người Chú là Trưởng giả rất giàu có, nhưng keo kiệt không bao giờ chịu bố thí giúp ai, những người thân tộc bảo: “Sao không dùng của cải tạo dựng tương lai đời sau?” Trưởng giả nghe hiểu ra liền đem trăm nghìn vàng bạc tiền của bố thí cho các Phạm Chí, dị học (là người tu hành của ngoại đạo), Tôn giả nghe nói Chú mình làm như thế.
Tôn giả Thi Bà La đến chỗ Đức Phật cúi đầu lễ lạy, xong đi nhiễu ba vòng quanh Phật, rồi đi vào thành khất thực dần dần đến nhà Chú đứng lặng thinh. Trưởng giả thấy cháu, bảo:
- Mấy bữa rồi sao không đến, tôi đã đem vô số vàng bạc, tiền của, cúng dàng hết rồi, nay có thể cho tấm vải.
Tôn giả đáp:
- Nay tôi đến đây để khất thực, chẳng dùng vải.
Trưởng giả đáp:
- Tôi đã bố thí hết rồi, không thể bố thí nữa.
Tôn giả muốn độ cho Chú mình, bay lên hư không, làm phép thần biến, thân ra lửa, ra nước, đi đứng ngồi nằm trên không tùy ý. Trưởng giả thấy sự biến hóa ấy liền nói:
- Thôi xuống đây ngồi, tôi sẽ thí cho thức ăn.
Tôn giả liền xuống ngồi.
Trưởng giả đem thức ăn dở tệ ra. Tôn giả vốn con nhà hào tộc, tùy ý ăn uống, vì Trưởng giả nên nhận ăn thức ăn ấy, ăn xong trở về. Đêm ấy có vị Trời ở trên không bảo Trưởng giả, sáng sớm đến nhắc lại rằng: “Bố thí cho Thi Bà La bậc Thánh đã giải thoát được phúc lớn
Trưởng giả nghe vị Trời nói liền nghĩ: “Hôm trước ta đem vô số vàng bạc cúng dường Phạm chí, dị học chẳng có cảm ứng. Hôm qua ta lấy thức ăn dở tệ thí cho Thi Bà La có cảm ứng liền. Sáng ra, ta sẽ đem trăm nghìn vàng bạc tiền của dâng cho Thi Bà La”.
Sáng ra, Trưởng giả kiểm điểm vàng bạc cho đủ số, liền đem đến gặp Thi Bà La. Sau khi chào hỏi, ông liền nói:
- Mong Thi Bà La nhận cho trăm nghìn vàng bạc này.
Tôn gia đáp:
- Mong cho Trưởng giả được phúc vô cùng, trường thọ. Nhưng Thế Tôn không cho Tỳ Kheo nhận trăm nghìn vàng bạc.
Trưởng giả liền đến chỗ Đức Phật, cúi đầu lạy rồi thưa:
- Cúi xin Đức Thế Tôn chấp thuận cho Tôn giả Thi Bà La được nhận trăm nghìn vàng bạc để con được hưởng phước báu về sau.
Đức Phật liền bảo một Tỳ Kheo đi mời Tôn giả Thi Bà La đến gặp Phật. Khi Tôn giả đến cúi lễ xong, Đức Phật bảo:
- Nay Thầy có thể nhận trăm nghìn vàng bạc của Trưởng giả khiến Trưởng giả được phúc báu, đây là nghiệp duyên đời trước.
Tôn giả Thi Bà La đáp:
- Xin vâng, thưa Thế Tôn.
* Toàn Không.
Home Mục Lục: [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8[9] [10] [11] [12] [13] [14] [15] [16] [17] [18].