Nguyền Khổng Thánh bảo toàn Nho giáo,
Lấy Nghĩa Nhân Đại Đạo truyền ra,
Nhưng nơi Hạnh Đường là trường huấn luyện
Chức sắc của Đạo thì thờ Đức Mạnh Tử chớ không
thờ Đức Khổng Tử ?
“Trong
thời kỳ Đức Khổng Phu Tử lập Đạo giáo giáng sanh nhằm lúc thời bình lập đời
quân chủ, khi Đức Mạnh Tử giáo dân nhằm lúc thời loạn, phong trào sôi nổi, giặc
giả tứ phương, bởi vậy cho nên Ngài lập đời lấy cái thuyết Quân Chủ Dân Quyền,
tức là Quân Chủ Lập Hiến mới thâu phục được lòng dân, ấy vậy mới phù hạp với
thời kỳ nầy, tại vậy mới thờ Ngài”.
Chúng ta
thấy Đức Khổng Tử chủ trương “Quân quân, Thần thần, Phụ phụ, Tử tử. Quân Sư
Phụ” tức là Ngài đề cao vai trò của vị quân vương là vị vua cai trị một nước,
đây là chủ trương tôn quân quyền.
Còn Ngài
Mạnh Tử (372 TCN-279 TCN) tức là sau Đức Khổng khoảng hai trăm năm, đây là thời
kỳ chiến quốc, ngoài Nho gia thời kỳ nầy còn nở rộ hàng trăm trường phái tư tưởng lớn như: Pháp gia, Mặc gia,…Trong
hoàn cảnh lịch sử đó Ngài Mạnh Tử phải phát triển thêm tư tưởng của Đức Khổng
với câu nói bất hủ : Dân vi quý, xả tắc thứ chi, quân vi khinh. Đây là
tư tưởng dân chủ hay phù hợp với chế độ Quân chủ lập hiến như lời dạy của Đức
Hộ Pháp.
Trong Đạo
Cao Đài, Đức Chí Tôn ban cho Quyền Vạn Linh ngang bằng với Quyền Chí Linh qua
bài Thánh giáo ngày 23-12-1931 có đoạn:
“Thầy nói
rõ Quyền Chí Tôn là Thầy Quyền Vạn linh là sanh chúng, ngày nào quyền lực Chí
Tôn đặng hiệp một cùng Vạn linh thì Đạo mới ra thiệt tướng. Thầy đã ban quyền
hành Chí Tôn của Thầy cho hai đứa làm đầu Hội Thánh là Giáo Tông cùng Hộ Pháp.
Vậy thì quyền hành chí Tôn của Thầy đặng trọn vẹn khi Giáo Tông cùng Hộ Pháp
hiệp một còn cả nhơn loại thì là quyền lực Vạn linh. Quyền hành Chí Tôn của
Thầy duy có quyền hành Vạn linh đối phó mà thôi”.
Trong ba
hội của Quyền Vạn linh thì Hội Nhơn Sanh có quyền rất lớn như việc cầu phong,
cầu thăng chức sắc phải qua Hội Nhơn Sanh duyệt xét…
Tóm lại,
khi Đức Hộ Pháp cho thờ Ngài Mạnh Tử nơi Hạnh Đường là muốn người chức sắc phải
thấm nhuần tư tưởng dân chủ trong quá trình hành Đạo của mình…
2 - Qua câu kinh: “Tề Thiên Đại Thánh để lời, Thiện nam tín nữ nghe thời
phải vưng” tại sao Tề Thiên Đại Thánh là nhân vật hư cấu trong Tây Du Ký lại có
lời dạy như vị Thần Tiên trong đạo Cao Đài ?
Câu kinh
nầy cũng như trong TNHT có bài giáng cơ của vị Tề Thiên Đại Thánh và Lê Sơn
Thánh Mẫu giáng cơ dạy các đạo hữu phái Minh Tân. Trong hàng chức sắc Đại Thiên
Phong cũng có những vị tiền thân là Vi Hộ, Từ Hàng, Dương Tiển,… Đây là những
nhân vật trong truyện Phong Thần của Trung Hoa…Việc nầy giải thích như thế nào
?
Để trả
lời câu hỏi nầy Đức Chí Tôn đã cho bài thi:
Phong
Thần đừng tưởng chuyện mờ hồ,
Giữa
biển ai từng gặp Lão Tô,
Mươn
thế đặng toan phương giác thế,
Cũng
như nương bút của chàng Hồ.
Đức Hộ
Pháp giải nghĩa như sau: “Chuyện Phong Thần đừng tưởng viết ra là bịa đặt. Lão
Tô là Tô Đông Pha, ông tổ của nòi giống Phù Tang. Ai dè ngoài biển có Tô Đông
Pha nghĩa là có sắc dân bên Phù Tang. Ai từng gặp mà gặp là có đa…”
Chúng ta
biết hai bộ truyện Tây Du Ký và Phong Thần Diễn Nghĩa là do hai vị tu hành đạt
Đạo trong hàng Tiên Phật viết ra nên có thể nhìn thấy cõi vô hình mà người
thường không nhận ra được.
Nay có
lời xác nhận của các Đấng Thiêng Liêng nữa, vậy đối người Cao Đài chúng ta sẽ
có niềm tin là đúng đắn.
Một thí
dụ nữa trong xã hội hiện tại có người lấy tên những nhân vật trong tiểu thuyết
kiếm hiệp của Kim Dung như Hồng Thất Công, Hoàng Dược Sư, Kha Trấn Ác,… đặt tên
hiệu cho mình, thì cõi vô hình cũng có các Đấng Thiêng Liêng thấy Tề Thiên Đại
Thánh quá nổi tiếng ở cõi nhân gian bèn mượn danh xưng hiệu…Ở cõi hữu hình thế
nào thì cõi vô vi cũng vậy…
3 - Tại sao giáo lý Cao Đài nói rắng : buổi Tam Kỳ không còn địa ngục nữa
như câu kinh “Vô địa ngục, vô quỉ quan” nhưng trong Giới Tâm Kinh lại có câu :
“Cửa địa ngục gông kìm sẳn đủ” như vậy có mâu thuẩn nhau không ?
Giới Tâm
Kinh nầy được các Đấng giáng cơ ban cho chi Minh Tân nghĩa là trước khi khai mở
Đại Đạo Tam Kỳ Phô Độ tức là còn thời Nhị Kỳ Phổ Độ. Trong giai đoạn đầu mở
Đạo, các Đấng dạy các chi Minh Lý, Minh Tân, …dâng kinh cho Tam Kỳ Phổ Độ trong
đó có bài Giới Tâm Kinh và Kinh Sám Hối nói về các hình phạt cõi địa ngục…Mãi
đến năm 1935 các Đấng mới giáng cơ ban cho Tân Kinh , tức là mười năm sau ngày
khai Đạo mới có kinh Tận độ vong linh… đóng địa ngục mở tầng Thiên.
Mặc dầu
đã có Tân Kinh nhưng các Đấng vẫn cho giữ lại các bài kinh đã thỉnh từ các chi
Minh Đạo như là dấu nối từ thời Nhị Kỳ qua Tam Kỳ Phổ Độ.
Trong
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có bài Thánh giáo của Bà Bát Nương giải thích về cõi Âm
Quang thay thế cho cõi địa ngục trước kia như sau:
“…Vậy thì
nơi khiếm ánh Thiêng liêng là Âm quang, nghĩa là âm cảnh hay địa ngục, Diêm
đình của chư Thánh lúc xưa dặt hiệu. Vây thì chính lời nhiều tôn giáo, nơi ấy
là những chốn phạt tù những hồn vô căn vô kiếp, nhơn quả buộc ràng, luân hồi
chuyển thế nên gọi là âm quang, đặng sửa chữ phong đô địa phủ của mê tín gieo
truyền, chớ kỳ thật là nơi để cho các chơn hồn giải thân định trí (một nơi
trung gian giữa Thiên đường và địa ngục hay là mờ mờ mịt mịt). Ấy là một cái
quan ải, các chơn hồn khi qui thiên phải đi ngang qua đó. Sự khó khan bước khỏi
qua đó là đệ nhứt sợ của các chơn hồn…
Có nhiều
hồn chưa qua khỏi đặng, phải chịu ít nữa đôi tram năm, tùy chơn thần thanh
trược. Chí Tôn buộc trường trai cũng vì cái quan ải ấy…”
Thất
Nương ở đó đặng dạy dỗ, nâng đỡ các chơn hồn, dầu sa đọa luân hồi cũng có người
giúp đỡ. Nghe lại coi có phải vậy chăng ?”.
Tóm lại,
buổi Tam Kỳ Phổ Độ Đức Chí Tôn ban hành đại ân xá, không còn những hình phạt
nặng nề nơi địa ngục nữa mà thay vào bằng cõi Âm Quang để các chơn hồn xét
mình, giải thân, định trí, ăn năn sám hối tội tình…
* Bảo Chơn (ghi lại, 7-2023)
NỐI BƯỚC N°10.Mục Lục: [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [ 9 ] [10] [11] [12] [13] [14] [15] [16] [17] [18] [19] [20] [21] [22] [23] [24] .