Âm Quang và Âm Ty.
Theo giáo lý Cao Đài, sau khi con người chết
đi, phần chơn linh (người đời gọi là linh hồn) và chơn thần (người đời gọi là
vía hay phách) tách rời thể xác để về ngôi xưa trên cõi thiêng liêng hằng sống.
Trình tự chuyến đi được mô tả qua các bài kinh Tuần Cửu và đặc biệt Đức Hộ Pháp
đã kể lại rất chi tiết trong 35 bài thuyết đạo về Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống
(Ban Tốc Ký sưu tập - Hội Thánh xuất bản và giữ bản quyền).
Riêng
những người đã làm điều ác ở thế gian thì phải vào một nơi mà người ta thường gọi
là Địa Ngục. Hiện nay Hội Thánh Cao Đài
giải thích về nơi này bằng hai thông tin.
Một
là bài Kinh Sám Hối trong quyển Kinh Thiên Đạo Thế Đạo. Bài này do cơ bút của
Minh Lý Đạo (Chùa Tam Tông Miếu, Đường Cao Thắng, Sài Gòn). Lúc mới mở đạo chưa
có kinh tụng đọc, nên Hội Thánh thỉnh bài này về làm kinh Cao Đài theo lịnh Đức
Chí Tôn. Kinh Sám Hối gọi Địa Ngục bằng nhiều tên như Âm Ty, A Tỳ, Âm Đài, Âm
Cung, Âm Cảnh và Diêm Đình. Nơi đây các hồn có tội bị tra tấn bằng những hình
phạt ghê rợn, sau đó đi đầu thai làm người hoặc con vật để tiếp tục trả nợ. Tóm
lại, quan niệm này giống y chuyện Thập Điện Diêm Vương theo tín ngưỡng dân
gian của Trung Hoa cổ đại mà phần lớn người Việt đều biết.
Hai
là thánh giáo của Thất Nương (ngày 21/5/1934) và Bát Nương (tháng 11/1932). Hai
bài này do cơ bút Cao Đài, in trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. Hai Bà dạy rằng nơi
đó gọi là Âm Quang để các chơn hồn có tội tịnh tâm, tự xét tội lỗi của mình trước
khi tái kiếp. Quan niệm này không thấy nhắc tới chuyện tra tấn thể xác, nhưng
điều đáng sợ là thời gian lưu lại Âm Quang kéo dài, có thể đến hàng ngàn năm.
Tượng Ông Ác trước cửa Đền
Thánh
Rõ ràng hai quan điểm này có phần đối
nghịch. Tuy nhiên, sau một thế kỷ hoạt động,
chưa thấy Hội Thánh có giải thích chính thức nào về sự trái nghịch này. Xin lưu
ý, thánh ngôn của Thất Nương và Bát Nương gọi nơi này là Âm Quang, một cái tên
mới chưa có tôn giáo nào gọi trước đây. Từ đây, xin được dùng tên mới trong bài
này thay vì Địa Ngục.
Để tránh Âm Quang
Riêng cá nhân tôi, một tín đồ bình thường,
thì cho rằng nghịch lý của hai giả thuyết đó không quan trọng. Cả hai có một điểm
chung là người không làm điều ác sẽ không bị kẹt lại đây. Vậy muốn tránh Âm
Quang, tôi phải tránh làm điều ác trong kiếp sống.
Tuy nhiên, đây là một khó khăn trong thời
hạ ngươn bởi thiện ác không còn rạch ròi, dễ nhận ra như hai bức tượng Ông Thiện
Ông Ác trước cửa Đền Thánh nữa rồi. Có khi ở thế gian là phạm tội, nhưng lại
không bị phạt trên cõi thiêng liêng. Như trường hợp ngài Vương Quan Kỳ lập chi
phái Cầu Kho, nên theo Bát Đạo Nghị Định là có tội. Nhưng Đức Hộ Pháp nói rằng
ngài Kỳ vẫn được thong dong đi qua cây cầu bằng ánh sáng vào Bát Quái Đài.
Thông thường người có tội qua cầu này sẽ bị rơi xuống Bích Hải.
Lời dạy của Thất Nương và Bát Nương có
thêm một yếu tố đem lại một ít hy vọng. Thất Nương Diêu Trì Cung dạy rằng: “…Vậy thì nơi ấy là nơi xét mình. Chớ chi cả nhơn sanh biết xét mình trước
khi thoát xác thì tự nhiên tránh khỏi Âm Quang. Nói cho cùng, nếu trọn kiếp, dầu gây lắm tội tình, mà phút chót biết ăn năn tự hối, cầu khẩn Chí Tôn độ rỗi thì cũng lánh xa cửa Âm Quang…” (Thánh Ngôn Hiệp
Tuyển II)
Tượng Thiện Thần và Ác
Thần theo dân gian
Đặc biệt, vào ngày 4/2/ Kỷ Sửu
(3/3/1949) Đức Hộ Pháp cũng khuyên tín đồ hãy tự xét mình: “ Các chơn linh tự trị lấy mình. Các bạn
nên nhớ điều đó. Nhứt là mấy anh mấy chị, vẫn phải biết cái bí mật đó đặng tự tỉnh
tại mặt thế này. Mình trị mình trước đi”. Và vào ngày 12/2/ Kỷ Sửu (11/3/1949), “ Ấy vậy cho nên các chơn linh cao siêu đã đạt đạo để
lại một phương pháp rất đơn giản. Con người vẫn đương làm theo, nhưng không biết
phương pháp này rất quan trọng trong việc tự giải thoát. Đó là Ngô Nhựt Tam Tỉnh
Ngô Thân. Nghĩa là, mỗi ngày tôi tự xét mình ba điều”.
Theo Phật Giáo, Địa Tạng Vương Bồ
Tát có mặt ở Âm Quang để giúp các tội hồn. Bây giờ, thánh ngôn Cao Đài nói Thất
Nương Diêu Trì Cung cũng có mặt để giúp đỡ, dạy dỗ các chơn hồn phái nữ mắc tội
nữa. Vậy thì chìa khoá để tránh Âm Quang là xét mình, ăn năn trước khi chết.
Còn lỡ bị kẹt lại Âm Quang thì, theo giáo lý mới của Cao Đài, cũng là tự xét
mình với sự giúp đỡ của Địa Tạng Vương Bồ Tát và Thất Nương chớ không bị tra tấn
đau đớn.
Thoạt nghe qua, tự xét mình có vẻ dễ
dàng quá. Nhưng nghĩ kỹ, chuyện không dễ chút nào đâu. Người phàm chúng ta chỉ
giỏi việc săm soi người khác để tìm sai sót thôi, còn lỗi của chính mình rất
khó nhìn thấy. Kinh Thánh Luke (Lu Ca) đã viết: “Sao ngươi nhìn thấy cọng rác trong mắt anh em mình mà
không thấy cây đà trong mắt của ngươi”.
Do đó, ở Âm Quang cũng chỉ tự xét
mình thôi mà phải mất đến vài trăm năm, thậm chí cả ngàn năm dù có sự giúp đỡ của
hai vị Phật. Vậy hãy thử tìm xem, trên trần gian loài người đã nghĩ gì và làm
gì về phương pháp này.
Tự xét mình ở phương
Tây
Thật ra, ở phương Tây, khái niệm tự
xét mình đã được đề cập từ rất lâu. Triết gia Hy Lạp cổ đại Socrate (sinh năm
470 - mất năm 399 trước Chúa Jesus), vốn được xem là người lập ra nền triết học
phương Tây, nhấn mạnh việc tự xét mình rất quan trọng vì đó là nền tảng triết
lý của ông. Ông nổi tiếng với tuyên bố: "Sống mà thiếu tự xét
thì không đáng sống". (AI Britannica Chatbot 2024)
Tượng Socrates ở Viện Bảo
Tàng Louvre, Pháp
Ông cho rằng mỗi cá nhân phải tự xét
mình để trau dồi đạo đức và nuôi dưỡng phần hồn. Đại khái nghĩa là, sau khi
hành động phải tự hỏi mình đã làm gì? Việc đó có đạo đức không? Rồi tự trả lời
hết sức chân thành. Nếu việc làm đó không có đạo đức, phải biết ăn năn hối lỗi
và hứa với lòng lần sau không làm vậy nữa.
Đã hơn 2,000 năm nay, các dân tộc
phương Tây đã làm theo tư tưởng Socrates. Vậy còn hiện nay thì sao? Chúng ta
hãy thử nghe vài học giả đương đại nói.
Tiến Sĩ Michael W. Austin, Giáo Sư Triết
Học thuộc Đại Học Eastern Kentucky, Hoa Kỳ, đã nói trong bài đăng tại địa chỉ:
Tự xét mình là một trong nhiều cách tu
học truyền thống chúng ta nên áp dụng vào cuộc sống. Trong một cuộc thảo luận về điều này, triết gia đương đại James Gould nói rằng
tự kiểm điểm là "Theo dõi và
đánh giá thường xuyên đạo đức của chính chúng ta".
Cả
xưa lẫn nay, rất nhiều người ủng hộ việc này. Lưu ý rằng nên thực hiện hai lần
một ngày. Vào buổi sáng, hãy suy nghĩ bạn sắp
phải làm gì, tập trung vào các trách nhiệm
của bạn trong ngày hôm đó. Buổi tối, hãy xem xét lại bạn đã làm gì. Trong quá trình xem xét lại cuối ngày, bạn
hãy tự hỏi mình một số câu hỏi. Một ví dụ là Seneca, triết gia La Mã mất năm 65 sau Công Nguyên, đã tự hỏi mình: "Hôm
nay tôi đã bỏ được thói quen xấu nào?" "Tôi
đã chống lại được cám dỗ gì?" "Tôi
đã tốt hơn ngày hôm qua thế nào?"
Chúng
ta cũng có thể tự hỏi mình đã thể hiện những đức tính nào: lòng
dũng cảm, sự trung thực, lòng trắc ẩn hay đức tính nào khác nữa? Tôi đã tôn trọng người khác chưa? Tôi có công bằng với bản thân và người khác không? Hoặc có thể chọn một câu hỏi đơn giản do Đức Đạt Lai Lạt Ma gợi ý: "Hôm nay tôi có một trái tim nhân hậu không?"
Đức Đạt Lai Lạt Ma
Tự xét mình ở phương Đông
Còn
ở phương Đông, nơi xuất phát của những tôn giáo lớn như Ấn Giáo, Phật Giáo, Lão
Giáo, Khổng Giáo thì sao? Trước hết, xin nhắc lại câu
“Ngô nhựt tam tỉnh ngô thân” mà Đức Hộ Pháp đã đề cập ở trên. Đây
là câu nói của bậc hiền triết Trung Hoa Tăng Tử (sinh năm 505 – mất năm 435 trước
Chúa Jesus), một trong bốn vị Thánh của Đạo Khổng, nguyên văn như sau:
Hán
Việt:
Ngô nhật tam tỉnh ngô thân: Vị nhân mưu nhi bất trung hồ? Dữ bằng hữu giao nhi bất tín hồ? Truyền bất tập hồ? Tiếng Việt: Mỗi ngày tôi
tự xét ba việc: Làm việc gì cho ai, có hết lòng không? Giao thiệp với bạn bè, có tin nhau
không? Thầy dạy cho điều
gì, có học tập đủ không?
(Tự Điển Hán Nôm online)
Tự
điển danh tiếng Britannica của Anh nói thêm tự xét mình là một khía cạnh quan
trọng trong nhiều tôn giáo phương Đông. Như Đạo Giáo nhấn mạnh sự hòa hợp với Đạo, tức là bản chất của vũ trụ. Tín đồ được khuyến khích
tự xét mình qua các phương pháp như ăn chay, thiền định và tự sửa chữa tính
tình. Trong Phật giáo, tự kiểm tra là một phần không thể thiếu trong thiền định,
lúc mọi người xét lại những suy nghĩ và hành động của mình để hiểu biết sâu sắc
hơn về bản thân và bản chất của thực tại.
Tự xét mình trong Cao
Đài
Hiển nhiên, phương pháp tự xét mình
đã phổ biến khắp thế giới trần tục mấy ngàn năm rồi. Bây giờ giáo lý Cao Đài dạy
rằng phương pháp này có thể giúp ta về cõi thiêng liêng mà không bị kẹt lại Âm
Quang. Vậy tín đồ Cao Đài chúng ta tự xét như thế nào?
Trước hết, theo trích dẫn thánh ngôn
Thất Nương Diêu Trì Cung ở trên, việc tự xét mình trong triết lý Cao Đài là một
hành động tâm linh đặc biệt bao gồm ba yếu tố.
Toà Thánh Vatican hiện
nay
Thông công trực tiếp với Đức Chí
Tôn:
Khi tự xét mình, chúng ta đối thoại
trực tiếp với Đức Chí Tôn, đấng chúa tể vũ trụ. Chính Đức Chí Tôn chứ không phải
đấng thiêng liêng nào khác nghe mình và sẽ quyết định chúng ta được tha tội hoặc
không.
Điều này được chứng minh bằng thánh
ngôn 26/4/1926: “Thầy nhứt định đến
chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao chánh giáo cho tay phàm nữa…..Chẳng
một ai dưới thế này còn đặng phép nói rằng thế quyền Thầy mà trị phần hồn của
nhân loại”.
Quyền trị phần hồn chính là quyền
quyết định một chơn hồn siêu thăng (có công) hay sa đoạ (có tội) trên trời. Chỉ
có Đức Chí Tôn là có quyền đó. Suy ra, ở thế gian này chúng ta không nên khẳng
định một ai đó là chánh hay tà. Người phàm trần không thể phán xử chính xác được.
Trong lịch sử tôn giáo thế giới đã
có lần người phàm kết án oan sai rồi. Cuối thế kỷ XVI, Toà Thánh Thiên Chúa La
Mã đã lập Toà Án Dị Giáo để kết tội những người nói ngược với giáo lý của Toà
Thánh. Nhà thiên văn Galileo cho rằng trái đất quay xung quanh mặt trời, trái với
quan điểm của Toà Thánh. Thế là ông bị Toà Án Dị Giáo kết tội là tà đạo, bị quản
thúc tại gia cho tới chết. Nhưng về sau khoa học hiện đại đã chứng minh Galileo
đúng. Đến năm 2009, gần 400 năm sau, Toà Thánh Vatican mới công nhận là ông nói
đúng và phục hồi danh dự cho ông.
Giao tiếp đến từng cá nhân:
Quả thực là trong vũ trụ này có quá
nhiều sanh linh, nhưng Đức Chí Tôn vẫn giao tiếp với từng người. Xin mời đọc
thánh ngôn sau: “Nơi thân phàm các con, mỗi đứa Thầy đều cho một chơn linh gìn giữ cái chơn mạng sinh tồn. Đấng chơn linh ấy vô tư mà lại đặng
phép giao thông cùng cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật và các
Đấng Trọn Lành nơi Ngọc Hư Cung…” (Cấm vọng ngữ - Thánh Ngôn Hiệp Tuyển II). Chơn linh đó chính là một phần của Đức Chí Tôn. Vì vậy đừng lo lắng là
phần tự xét của mình không đến tai của Đức Chí Tôn.
Toà Thánh Cao Đài Tây
Ninh
Lý luận bào chữa tội là vô ích:
Tâm lý của người tự xét phải hết sức
chân thành. Bởi vì khuynh hướng bẩm sinh của bản ngã là tự vệ, nên nhận ra tội
lỗi mình là rất khó khăn. Thậm chí nhận ra rồi, bản ngã vẫn nghĩ ra đủ thứ lý lẽ,
thậm chí rất kỳ quặc, để bào chữa.
Trong Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống,
Đức Hộ Pháp đã nói những chơn hồn không tin tôn giáo bác bỏ tội của mình khi về
Cung Hiệp Thiên Hành Hoá. Họ cuối cùng cũng phải chịu thua các Đấng Trọn Lành.
Chân Lý triệt tiêu được Luận Lý. Do đó, hãy nhớ rằng nhận tội mà còn thấy có lý
lẽ bào chữa, là chưa thành thật.
Nếu động tác xét mình quan trọng như thế
thì mình xét điều gì? Giáo lý Cao Đài thể hiện qua các bài kinh, nghi lễ tôn
giáo, biểu tượng ở Đền Thánh, Tân Luật Pháp Chánh Truyền v.v... Bất cứ ai cũng
có thể nghiên cứu và tìm ra mình cần tự xét điều gì. Tốt nhất là tìm đức tính
nào mình còn thiếu sót nhất.
Tuy nhiên, để dễ theo dõi, trong bài
viết này xin đề nghị tự xét mình dựa trên Ngũ Giới Cấm (Bài 57, 58, 59, 60, 61
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển II). Nghĩa là, mỗi ngày mình hãy tự xét có vi phạm điều
nào trong năm điều cấm này hay không, rồi ăn năn tự sửa. Ví dụ như tôi đã lỡ uống
vài ly rượu với bạn bè. Vậy là đã phạm điều thứ tư “Tứ bất tửu nhục”. Vậy giờ để
ăn năn, tôi tự nguyện tụng kinh sám hối mười lần và tự hứa với Đức Chí Tôn sẽ
không bao giờ uống rượu nữa.
Thêm một ví dụ nữa, thấy mấy đồng đạo
bây giờ làm sái chơn truyền dữ quá, tôi bèn lên Facebook viết một bài chỉ trích
thậm tệ. Trong thâm tâm tôi mong Đức Chí Tôn trừng phạt mấy người này cho đáng
kiếp. Nhưng hôm nay tôi đột nhiên thấy mình đã sai vì nhớ lại thánh ngôn: “Vậy Thầy cấm các
con từ đây, nếu không đủ sức thương yêu nhau, thì cũng chẳng đặng ghét nhau,
nghe à”. (12-12- Kỷ-Tỵ - 11/ 1/1930 Thánh
Ngôn Hiệp Tuyển II). Vậy là tôi cầu nguyện sám hối bảy đêm, tự hứa lòng không
thù ghét ai nữa.
Kết luận
Nếu phần tự xét mình và ăn năn thành
công, nghĩa là được Đức Chí Tôn chấp thuận, coi như chúng ta sẽ không phải kẹt
lại Âm Quang sau khi qua đời. Tuy nhiên, chỉ sau khi chết chúng ta mới biết kết
quả này. Chỉ có vị nào Tịnh Luyện thành công (tức đi theo con đường thứ ba Đại
Đạo) thì mới biết trong khi còn sống. Nhưng Tịnh Luyện là pháp môn thượng thừa,
tín đồ bình thường khó mà theo nổi.
Nếu không bị vướng lại Âm Quang,
chúng ta sẽ lên các từng trời, theo mô tả trong các bài kinh Tuần Cửu. Cuối
cùng sẽ đến Ngọc Hư Cung, nơi Đức Chí Tôn ngự, từ đó sẽ được biết mình làm gì,
đi đâu nữa. Ngọc Hư Cung đã được mô tả kỹ trong bài viết Có Gì Ở Ngọc Hư Cung tại
địa chỉ sau, kính mời đọc giả tham khảo:
* Từ Chơn.
Sài Gòn 2nd November 2024.
Home.Mục Lục: [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ] [ 9 ] [ 10 ] [ 11 ] [ 12 ] [ 13 ] [ 14 ]