THỜI GIAN và KHÔNG GIAN (1). Phần 2. * Tam Quang.

Bát Nương Diêu Trì Cung

Vũ trụ diễn sinh từ năng lượng bản nguyên và tinh thần bảng nguyên bởi vì đặc tính diệu dụng của hai thành tố này. Trong khi năng lượng bảng nguyên duy trì vận chuyển yêu cầu sự tương liên (kết nối tương ứng và duy trì liên tục không ngắt quãng) thì tinh thần bảng nguyên lại có khả năng thu phát gián đoạn.
Chính vì vậy, những tồn tại được kiến tạo từ tinh thần bảng nguyên có khả năng thu phát gián đoạn.
Ánh sáng là một thành tố được kiến tạo từ tinh thần bảng nguyên. Linh vật khi tích lũy tinh thần lực đến một giá trị nhất định sẽ có khả năng phát ra ánh sáng. Ánh sáng này chính là Linh Quang, khác với thứ ánh sáng phổ quát.Linh quang có được kiến tạo từ tinh thần lực và linh vật có khả năng thu phát tùy ý. Linh quang so với ánh sáng phổ quát điểm chung và riêng như sau:
1 - Điểm chung là ánh sáng mang theo ý chí của Linh Căn, mong muốn thực hiện một công việc gì đó độ sáng của ánh sáng phụ thuộc vào lượng tinh thần lực tích lũy và mức tích cực của tư tưởng.
2 - Điểm riêng là linh quang có phạm vi chiếu sáng hạn chế, tùy thuộc vào ý chí của linh căn trong khi ánh sáng phổ quát sẽ tuyền đi xa nhất có thể. Trong không gian Tử Mông Vô Cực, các linh căn không phát ra linh quang của riêng mình mà hòa ánh sáng vào chung với không gian Tử Mông, tạo thành Khối Đại Linh Quang. Trong không gian Hồng Hoang Vô Cực, các linh căn phát ra linh quang mỗi lúc vận hành Thiên Cơ còn thông thường thu lại tịnh dưỡng, thu nạp tinh thần lực. Đến không gian Hư Vô Lưỡng Cực, toàn bộ linh căn hoạt động trong ánh linh quang của mình. Bởi vì, linh căn khi đã ở không gian Hư Vô Lưỡng Cực đều đã có ý chí của mình, đều có công việc gì đó hoặc cho sự tinh tấn của linh căn hoặc phụng sự diễn sinh cho vũ trụ.
Có thể nói, linh căn khi khoác lên trên mình ánh sáng linh quang và trụ định ở trạng thái đó thì được gọi là Linh Hồn. Vì thế, đã là linh hồn thì sẽ có phận sự của riêng mình, mọi linh hồn đều phải thực hiện hành trình của mình mới có thể quy về Cội Đạo. Do đó linh hồn nhất định phải hạ nhập không gian hữu hình hữu thể để thực hiện con đường tiến hóa của mình.
Linh hồn khi ở không gian Hư Vô Lưỡng Cực sẽ không chịu lực bài xích không gian, vì không gian được kiến tạo thích ứng với sự tồn tại của tinh thần lực.
Khi hạ nhập không gian hữu hình hữu thể do chịu các yếu tố tác động đến từ luật vật chất cân bằng nên linh hồn phải có cơ chế bảo vệ. Vì vậy, trước khi hạ nhập không gian hữu hình, linh hồn tiếp tục được khoác lên mình một lớp áo năng lượng.
Lớp năng lượng này được kiến thiết từ năng lượng bảng nguyên và tinh thần bảng nguyên, để vừa phù hợp với không gian hữu hình. Trạng thái linh hồn được bao bọc bởi lớp năng lượng đó được gọi là Nguyên Thần và lớp năng lượng đó được gọi là Nguyên Khí.
Hình thành nguyên thần, lúc này linh hồn mới chính thức được trang bị đầy đủ phương tiện đặng đầu thai vào các sinh linh tại không gian hữu hình. Khi nguyên khí cạn là lúc linh hồn phải trở về cõi hồn. Nhưng, đa số linh hồn lại bị mắc kẹt bởi vì tác động của luật nhân quả, luật luân hồi. Vì vậy, chỉ có tu học mới tìm được con đường trở về quê hương, trở về Cội Đạo. Linh hồn hạ nhập không gian hữu hình, tiến trình vũ trụ diễn sinh được thúc đẩy mạnh mẽ và sôi động.
Thiên Địa từ đó  lập ra các tầng thế giới - đó là một mốc son đáng nhớ. Từ mốc son đó, khái niệm tiên thiên và hậu thiên được hình thành và nhắc đến mãi về sau. Các linh căn, linh hồn hình thành trước thời điểm đó, được gởi từ không gian Hồng Hoang xuống thế giới hữu hình thì được gọi là linh căn, linh hồn tiên thiên (nguyên nhân). Các linh căn, linh hồn tuân theo nguyên tắc tích lũy tinh thần lực mà nên hình tại không gian hữu hình được gọi là linh căn, linh hồn hậu thiên.
Thời kỳ thành lập Thiên Địa, các linh hồn tự do lựa chọn hình thái hữu hình lúc hạ nhập không gian hữu hình. Nhiều chủng loại từ thời thượng cổ, duy trì cho đến ngày nay vẫn là chủng loại mạnh mẽ. Các chủng loài đó thường không chọn không gian 3D làm nơi sinh tồn nên loài người chúng ta không thể nhìn thấy chúng, càng khó thấy trong thời kỳ lực phân kỳ không gian mạnh mẽ. Sự sàng lọc muôn loại chủng loài cũng bắt đầu từ đó. Mãi thật lâu về sau mới xuất hiện con người với hình thái như chúng ta ngày nay.
Vũ trụ diễn sinh, không gian dần mở rộng theo vòng xoắn ốc. phía bên ngoài là không gian 3D, 4D và tăng dần lên bên trong. Các chủng loài mới, các vật chất mới, hành tinh mới, thiên hà mới cũng mở rộng dần theo vòng tròn xoắn ốc.
Vũ trụ được mở mang rộng dần, rộng dần. Đó là hành trình thuận, giúp năng lượng vũ trụ chuyển hóa và định hình thành vật chất trên khắp chiều không gian hữu hình. Vũ trụ mở rộng, năng lượng tối tại các vùng biên của nó liên tục được chuyển hóa, cung cấp cho vũ trụ nguồn năng lượng bảng nguyên mới, tinh thần bảng nguyên mới.
Từ đó, vạn vật sinh linh có được cơ hội tựu hình tựu thể, tinh tấn linh hồn. Linh hồn đồng hành cùng vũ trụ trong hành trình đó. Thế nhưng, để tiến hóa, linh hồn cần thực hiện hành trình ngược, tiến vào bên trong vòng xoắn ốc. Bởi vì đối với linh hồn tiên thiên thì đó là hành trình hồi hương sau một thực hiện thiên mệnh, còn linh hồn hậu thiên thì cũng cần tìm về nơi cội nguồn để hoàn thiện chính mình.
Tinh thần lực và trí huệ vũ trụ trụ tại không gian Hồng Hoang mới là nơi không còn dính mắc mới được vĩnh tồn cùng Thiên Địa.Trong hành trình tiến nhập không gian hữu hình không phải toàn bộ linh hồn đều thả mình xuống thế.
Nếu làm như vậy, không gian Hồng Hoang vô chủ, vũ trụ không còn có tinh thần lực để vận hành từ Gốc Cội.
 Linh căn vốn dĩ được tích lũy từ tinh thần bảng nguyên và trí Huệ vũ trụ mà hình thành. Khi linh căn có lượng tinh thần lực đủ lớn nó có khả năng chiết linh - tách ra một phần tinh thần lực để thành một linh căn nhỏ hơn với trí Huệ tương tự nhưng cần được củng cố. Linh căn chính (sở hữu lượng tinh thần lực lớn hơn) lúc này gọi là nguyên căn. Linh căn chiết linh và nguyên căn luôn luôn có mối quan hệ khăng khít với nhau. Bởi vì đặc tính của tinh thần có khả năng cách thu không phát và cảm ứng nên linh căn chiết linh và nguyên căn có thể cách không liên lạc được với nhau. Đặc điểm này là cơ sở quan trọng trong việc các bậc Đại Năng gởi chiết linh xuống các không gian hữu hình thực hiện công việc vận hành vũ trụ theo Thiên Cơ.
 Đến đây, ta thấy rằng, linh hồn có vai trò then chốt trong quá trình vũ trụ diễn sinh. Chỉ có điều có vẻ như là nghịch lý:
Vũ trụ diễn sinh thuận và có linh hồn đồng hành, linh hồn tu học nghịch để cho vũ trụ phát triển…Chúng ta đã có cơ sở để hình dung được rằng, vũ trụ hình thành dưới Thiên Đạo, các bậc đại năng xây dựng nên thiên luật và diễn sinh vũ trụ bằng thiên cơ.Vậy thì:
1 - Thiên Đạo là những luật lệ của vũ trụ được sinh ra trong quá trình hỗn độn diễn sinh vũ trụ do hỗn độn quy định.
2 - Thiên Luật là luật lệ do các Đấng Sáng Tạo quy định để phù hợp với quá trình diễn sinh phát triển của vũ trụ.
Thiên luật được quy định sao cho phải phù hợp với Thiên Đạo thì vũ trụ mới thuận lợi phát triển.
3 - Thiên cơ là kế hoạch, chương trình hành động để phát triển vũ trụ của các Đấng Sáng Tạo lập ra.
Ba khái niệm trên khá là rõ ràng.
a -Về lý, vạn sinh linh trong vũ trụ đều có thể thoát được thiên cơ, ngoài được thiên luật nhưng không bao giờ phá được thiên đạo. Bời vì Thiên Đạo là sinh mệnh của vũ trụ. Thiên Đạo chỉ mất đi khi vũ trụ hoại. Vũ trụ hoại thì sinh linh không còn.
Con người được các Đấng Sáng Tạo dung dưỡng, tạo điều kiện cho phát triển trong các chương trình tu học nằm trong thiên cơ. Nên nếu có thể nắm bắt được thiên cơ ít nhiều thì rất có ý nghĩa cho việc tu học và tinh tấn. Trong giai đoạn chuyển đổi trời đất hiện nay, khá nhiều môn phái bế quan tu luyện, không thu nhận thêm đệ tử mới và thường kèm với dặn dò của chân sư là lẳng lặng quan sát thiên cơ chuyển vận mà từ đó được tinh tấn.
Trái Thiên Cơ không có nghĩa là trái Thiên Đạo, nhưng con người rất rất nhỏ nhoi, tốt nhất là thuận Thiên Cơ. Không theo Thiên Luật có nghĩa sống ngoài vòng quản sự của Đấng Sáng Tạo.
Đấng Sáng Tạo có ích kỷ đến mức phế bỏ sinh linh đi không? Câu trả lời là không. Tuy nhiên, trước đó, Đấng Sáng Tạo sẽ thử thách sinh linh thật nhiều, để bảo đảm rằng, sinh linh không làm ảnh hưởng đến tiến trình phát triển của vũ trụ.
b-Thiên hình được dùng trong các tình huống đó. Thiên hình có hai lớp:
Khảo thiên pháp và khảo thiên tâm. Để dễ hình dung, lấy chuyện Tôn Ngộ Không trái lệnh Trời, bỏ chức Bật Mã Ôn về tự xưng là Tề Thiên Đại Thánh mà kiến giải.
1 - Khảo Thiên Pháp: Đây là hình thức thử thách pháp lực của sinh linh. Nếu sinh linh không đủ mạnh, ra ngoài vòng bao bọc của Đấng Sáng Tạo, gặp phải các thế lực hắc ám, gặp phải không gian hỗn loạn liệu còn tồn tại được không?. Để tránh cho sinh linh gặp tình huống đó mà không thể vượt qua, Thiên Đình phải khảo Thiên Pháp. Đó là lý do vì sao Tôn Ngộ Không bị phạt hành hình đủ kiểu. Nhưng vĩ đại thay, ông ta vượt qua.
2 - Khảo Thiên Tâm: Sau khi Tôn Ngộ Không thoát được Khảo Thiên Pháp Phật Tổ Như Lai đến Khảo Thiên Tâm:
 Ngộ Không đã không thể vượt qua lần khảo thí này. Tinh thần của Phật Tổ Như Lai là hoàn toàn hòa hợp tinh thần của vũ trụ toàn thể. Ngộ Không có đến tận đâu đi nữa thì không gian đó vẫn là không gian trong vũ trụ toàn thể, do đó ông ta không thoát được sự quan sát của Như Lai. Không qua được cửa Khảo Thiên Tâm, Đại Thánh liền bị nhốt lại 500 năm dưới Ngũ Hành Sơn để tới khi đi thỉnh kinh cùng Đường Tăng. Đó là lộ trình tiến hóa tinh thần lực, tiến hóa tâm Không của Đại Thánh vậy.Cho đến khi ông ta hoàn thành lộ trình đó đến đất Phật thỉnh kinh, ông ta được phong là Đấu Chiến Thắng Phật. Điều đó có ý nghĩa ra sao? Có phải là ông ta tay chân đấm đá hơn Phật không? Dĩ nhiên đây là một câu hỏi hài hước. Ngộ Không đắc quả vị như vậy, ý nói ông ta hoàn toàn được tự do, được phép sống ngoài Thiên Luật hay không chịu sự câu thúc của Đấng Sáng Tạo.
Vậy, “thắng Trời"là Tề Thiên Đại Thánh hay “thắng Phật”là Đấu Chiến Thắng Phật chung quy cũng chỉ là ngoài sự câu thúc của Thiên Luật mà thôi. Khác với tác phẩm Tây Du Ký, Đại Thánh là nhân vật đại hùng, đại lực, đại từ bi. Ngài là một biểu tượng của trời đất, là tấm gương khuyến học cho các linh căn, linh hồn hậu thiên. Ngài luôn chiến đấu trên con đường tiến hóa.Thành tựu của Ngài vì thế được thần tiên các cõi ngưỡng mộ, đem một phần câu chuyện của Ngài mà hóa duyên hữu tự, ấn truyền tâm pháp.
Mặc dù được đặc ân của trời đất, đứng ngoài Thiên luật, nhưng Đại Thánh vẫn lựa chọn phụng sự Thiên Cơ tham gia cứu độ chúng sanh.
Đối với Thiên Đạo thì không có ngoại lệ, sinh linh không thể làm trái Thiên Đạo.
 Bản kế hoạch của các vị đại năng về chương trình phát triển của vũ trụ được kiến thiết từ vô số tinh thần lực hội tụ mà thành. Thiên cơ rộng, bao phủ toàn thể vũ trụ. Hạch tâm của Thiên Cơ là khối đại tinh thần lực hội tụ, kết cấu hoàn mỹ được đặt tại không gian Hồng Hoang. Vòng ngoài được vận hành bởi muôn ức linh hồn tại Hư Vô lưỡng cực, tinh thần lực chúng linh được hòa vào muôn vạn dòng chảy vô hình trong không gian Hồng Hoang Thái Cực và trụ định vững vàng tại tâm là Không Gian Tử Mông Vô Cực. Kết cấu từ tinh thần bảng nguyên nên Thiên Cơ không có hình tướng. Chúng linh có thể tiếp xúc và cảm ngộ bằng linh ảnh. Linh ảnh của Thiên Cơ tại Không Gian Hồng Hoang đã được nhiều linh hồn tiến hóa nhìn thấy hoặc được các vị chân sư giúp nhìn thấy. Có thể nói, hình tượng Thiên Nhãn là hình ảnh dễ hình dung nhất của Thiên Cơ. Thiên Cơ là tinh thần của vũ trụ. Từ không gian vô hình, tinh thần của vũ trụ thẩm thấu ra những chiều không gian, chảy vào vô số dòng năng lượng, len lẫn vào ý chí trong muôn ức linh hồn.
Tại các không gian hữu hình, dưới sự vận hành của Thiên Cơ, các dòng chảy năng lượng, dòng chảy tinh thần được thực hiện liên tục và có trật tự. Các vì tinh tú, các vầng thái dương  được cấp dưỡng năng lượng và tinh thần liên tục không dứt. Năng lượng và tinh thần của các muôn vì tinh tú, thái dương lại được gởi đến vạn vật bằng con đường ánh sáng. Nhờ đó mà vũ trụ được trụ định, vận hành và mở rộng. "Ánh sáng truyền năng lượng theo định chí của Đấng Sáng Tạo" là vậy. Mặt Trời sẽ không bao giờ tắt, trừ khi vũ trụ này băng hoạ!. Như những kinh mạch trong cơ thể con người, như những vòng hải lưu trong lòng đại dương, như những dòng đối lưu trong bầu khí quyển. Vũ trụ vận hành với ngàn ngàn vạn vạn dòng chảy năng lượng và tinh thần, lớn nhỏ khác nhau, bao phủ thương khung, tàng nhập vạn vật. Thiên cơ được định lập kết cấu bởi các vị Đại Năng được gia lực bởi muôn ức chúng sanh, được điều hành bởi các vị Thiên Đế, được tham gia bởi muôn ức chúng sanh. Xuất phát từ không gian Hồng Hoang, nhưng vị tinh thần có khả năng cảm ứng cách không, nên hễ có sự rung cảm của sinh linh, Thiên Cơ liền giao cảm tương ứng. Thiên Cơ mạnh lên khi sanh linh trong vũ trụ có tinh thần tích cực, Thiên Cơ yếu đi khi sanh linh trong vũ trụ có tinh thần tiêu cực. Tinh thần tích cực đồng thuận với xu hướng của sinh cơ. Nên nói, vũ trụ diễn sinh càng mạnh mẽ thì Thiên Cơ càng vững chắc và ngược lại. Thiên Cơ được thay đổi khi vũ trụ hoàn thành một giai đoạn của mình. Trong một số trường hợp, Thiên Cơ được tái lập hoặc bổ sung ứng với việc vũ trụ sẵn sàng cho việc diễn sinh một thế giới mới. Thiên Cơ vận hành, tinh thần vũ trụ tàng nhập đến tất cả mọi ngỏ ngách của vũ trụ. Chính nhờ vậy, sinh linh thực hiện được sứ mệnh của mình, hòa vào dòng chảy tiến hóa, tạo lập, mở rộng và sáng tạo thế giới vật chất, đó là phận sự hữu hình. Bên cạnh đó, cho dù là nắm bắt được hay không muôn ức sanh linh trong vũ trụ đều đang thực hiện phận sự vô hình trong tiến trình mở rộng vũ trụ. Đặc tính của tinh thần cho phép thu phát ngắt quãng, cách không cảm ứng nên thông qua các dòng chảy tinh thần mà Thiên Cơ đã định lập, các vị Đại Năng tại các không gian bậc cao hoặc không gian Hồng Hoang có thể theo đó mà thu nhập tinh thần lực để sử dụng cho công việc của mình. Một đặc tính khác của tinh thần là mức độ hữu ích năng lực sáng tạo của tinh thần phụ thuộc vào tính tích cực của tinh thần. Cùng một lượng tinh thần bản nguyên tích lũy, tinh thần có tính tích cực càng cao thì lực sáng tạo càng cao. Dựa vào hai đặc tính này, các vị Đại Năng hướng dòng, tinh thần lực được thu góp và sử dụng cho công việc chuyển hóa năng lượng tối thành năng lượng bàn nguyên và tinh thần bản nguyên. Hỗn độn tuy là cơ sở để năng lượng tối chuyển hóa nhưng quy mô, hiệu quả chuyển hóa của năng lượng tối phụ thuộc vào tinh thần lực áp đặt lên nó. Quả là nhiều khái niệm rối rắm.
Tuy nhiên, may mắn cho chúng ta, những điều này tương ứng với Thông Điệp Yêu Thương, tần số rung động, niềm tin, ánh sáng của các tôn giáo. Nói rõ hơn, khi con người sống với thái độ lạc quan tích cực, yêu thương chân tính thì trong vô hình, chúng ta sẽ nhận được lại những kết quả tốt đẹp hơn sự sống được mở rộng và chúng ta cùng có được một thế giới tươi đẹp hơn.Năng lượng tối, thứ vô thuỷ vô chung này không nghĩ lại chính là kho tàng của vũ trụ. Bởi vì từ trong thăm thẳm, vạn vật đều muốn vươn lên, để đẹp đẽ hơn, để tích cực hơn, để hướng chân thiện mỹ toàn vẹn. Năng lượng tối chính nhờ đặc tính này mà chịu luật hỗn độn, chịu lực của tinh thần tích cực mà chịu tách thành năng lượng bản nguyên và tinh thần bản nguyên.
Vũ trụ toàn thể có tinh thần lực càng lớn thì năng lực mở rộng vũ trụ càng lớn. Để mở rộng vũ trụ, con đường các bậc Đại Năng vẫn thường làm là xây dựng những thế giới mới. Trước khi “xây dựng công trình”,các bậc Đại Năng cũng phải thực hiện lập những “bản thiết kế thế giới mới". Có được ánh sáng, có được không gian, có được vật chất, có các linh hồn thực hiện sứ mệnh, các Đấng Sáng Tạo lại họp bàn chương trình kiến tạo ra thế giới. Để kiến tạo ra một thế giới mới, các Đấng Sáng Tạo dùng hiểu biết của mình về Thiên Đạo để lập ra những chương trình xây dựng thế giới, như ngôn ngữ thường gọi hiện nay là những bản thiết kế. Họ dùng năng lượng và ý chí để tạo để một bản “Vũ trụ diễn sinh họa đồ thư". Đôi khi bản thiết kế được mô tả có dạng quyển trục như trong các phim tiên hiệp, ví dụ như Sơn Hà Xã Tắc Đồ của Thái Ất Chân Nhân trong phim hoạt hình Na Tra-Ma Đồng Giáng Thế. Bản Họa Đồ Thư đó có linh tính và mang thật nhiều thông tin cần thiết, như các 1-Quy luật sắp xếp vật chất và tinh thần.
2 - Quy luật vận hành vật chất và tinh thần.
3 - Quy luật tiến hóa của vật chất và tinh thần.
4 - Quy luật tuyển chọn sinh linh tiến hóa.
5 - Quy luật không gian.
6 - Quy luật ánh sáng.
7 - Quy luật khuyến khích thưởng phạt nhân quả…
Bản Họa Đồ Thư cho việc kiến tạo này có vai trò nhỏ thì giống DNA của một loài, lớn thì giống Hỗn Độn của vũ trụ toàn thể. Dựa vào nó mà diễn sinh từng bước từng bước ra các hệ thống hành tinh mới,diến sinh ra thiên hà mới, diễn sinh ra thế giới mới. Linh vật trụ định trong trạng thái vật chất ổn định thì được gọi là sinh linh.
Thế giới bắt đầu có sự sống và tiếp tục diễn sinh, tiếp tục tiến hóa.Một điều thú vị, không rõ tin vui hay không vui, đó là để tạo ra một bản thiết kế hoàn chỉnh sẽ có một vài bản họa đồ thư bị lỗi hoặc chưa hoàn mỹ. Đối với các Đấng Sáng Tạo đó là thứ vứt đi nhưng đối với các sinh linh tu học thì đó là một tài sản vô giá.
Bọn họ, những người tu học chắc chắn giành nhau đi tìm. Từ vũ trụ diễn sinh tới nay, các họa đồ thư vứt đi đó đã khó còn lưu lạc vô chủ mà chúng nằm trong các Tàng Kinh của các thế giới đa chiều bậc cao. Trong việc tu học, các bậc chân sư cũng có những cuộc thi của họ.Ở các cuộc thi đó, học trò được chọn của các vị chân sư giỏi sẽ có cơ hội nhận được phần thưởng là các bản họa đồ thư thiếu khuyết đó. Một người học trò nhận được họa đồ thư họ bắt đầu học và hiểu hơn về vũ trụ, hiểu hơn về thế giới.
Một quốc độ được lập ra với tri thức dày dạn được tích lũy từ các bản họa đồ thư là chuyện vẫn thường xảy ra. Công việc giảng dạy về vũ trụ học là công việc của các bậc chân sư. Từ cổ đến nay đã có rất nhiều kinh sách mô tả về nó, phù hợp cho từng thời kỳ.
Bên cạnh đó, để khuyến học, vào những thời điểm phi thường của vũ trụ, một số tiểu bối tập tễnh đi trên con đường tiếp bước tiền nhân cũng được phép thông tri đến chúng sanh cũng được phép thông tri đến chúng linh những kiến giải về vũ trụ. Đây cũng là lý do vì sao giai đoạn gần đây cực kỳ nhiều thông điệp cùng được viết ra và phổ biến. Bởi vì bản thân các họa đồ thư tuy mang những quy luật toàn thể nhưng luôn có sự khác biệt, thêm vào đó, hóa chuyển duy thức từ vô hình sang hữu hình hữu tự sao cho phù hợp với thời đại cũng là một lần làm hao chân nghĩa của họa đồ thư. Kinh vô tự không có tính phổ quát, kinh hữu tự thì chân nghĩa hao hụt. Sự tồn tại nhiều kiến giải nói trên không có gì là tồi tệ. Chúng sinh có cơ hội tiếp cận kiến giải phù hợp nhất với sự tiến hóa của mình. Để làm được điều đó, cần có một tiền đề là: Người theo học đạo biết mở lòng lĩnh ngộ sao cho tính phổ quát là rộng nhất, lợi lạc là lớn nhất.
Sau khi sáng tác ra ánh sáng, đồng hành với những thuộc tính đặc biệt của nó, các Đấng Sáng Tạo đã xây dựng được bản thiết kế vũ trụ không gian đa chiều.
Từ đó, lấy bậc các không gian Hồng Hoang làm trung tâm, các bậc Đại Năng diễn sinh ra các không gian nhiều chiều.
Khởi thủy, không gian vũ trụ bắt đầu trụ định từ không gian 3D và phát triển rộng dần theo chiều xoắn ốc, để cấp không gian 3D xa dần trung tâm không gian Hồng Hoang.Toàn thể các cấp bậc không gian từ hữu hình  đến vô hình có sự tương liên theo hình xoắn ốc. Hình dung này có thể giúp ích chúng ta thực hiện một số kiến giải về tâm linh. Xét chuyển động quay tròn của vật có dạng là dây hình xoắn ốc ta thấy:
1 - Một trở lực rất nhỏ tại tâm cũng làm cho toàn bộ dây xoắn ốc dao động mạnh, càng ra ngoài dây xoắn ốc  dao động càng mạnh.
2 - Nếu trở lực xuất hiện ở không gian phía ngoài dây xoắn ốc, bằng lực ly tâm, trợ lực sẽ dễ dàng bị phá bỏ và vượt qua. Trợ lực phía ngoài cũng gây ảnh hưởng đến sự ổn định của phía trong dây xoắn ốc, do đó, tránh được càng nhiều trở lực thì dây xoắn ốc quay càng ổn định.
3 - Quỷ đạo quay của phía ngoài cùng của dây là dài nhất, và càng vào phía trong càng ngắn. Điều này cũng tương ứng với lý giải về thời gian ở không gian 3D dài hơn thời gian ở không gian bậc cao trong khi vũ trụ toàn thể đang cùng trôi trong một chu trình.
4 - Xem xét quỹ đạo quay của điểm gần tâm trong dây xoắn ốc có thể tính toán được quỹ đạo quay của các điểm phía ngoài dây xoắn ốc. Do đó hiểu biết về thế giới tâm linh (hay là các không gian bậc cao, không gian Hồng Hoang), hiểu biết về Thiên Cơ sẽ có năng lực dự đoán về tương lai. Kiến tạo ra Thiên Cơ, các bậc Đại Năng đã nắm rõ sự vận hành của toàn bộ các không gian trong mối quan hệ xoắn ốc tương liên. Những việc to tát xảy ra ở không gian 3D cũng chỉ là một chi tiết hết sức vụn vặt tại các không gian bậc cao hơn, hoặc có khi chỉ là một cái chớp sáng tại không gian Hồng Hoang. Hình dung không gian xoắn ốc tương liên cũng có thể giúp ta hiểu được vì sao một số giấc mơ mãi lâu sau mới thành hiện thực. Bởi lẽ, một sự kiện tương ứng đã xảy ra ở chiều không gian bậc cao đã được thần hồn ta ghi nhận. Giấc mơ được biểu đạt bằng những hình ảnh mà trí não 3D của chúng ta quen thuộc và tiếp nhận được (dĩ nhiên, đó không phải là tất cả kịch bản cho những giấc mơ). Cũng chính vì sự kiện xảy ra ở không gian bậc càng thấp càng phụ thuộc vào không gian bậc cao nên chúng ta dễ biết cái gì gọi là “vô vi nhi vi, vạn vật tự quy". Bởi lẽ, ở không gian 3D, sự cố gắng, chủ động của sinh linh có khi chỉ chiếm khoảng 20% kết quả trả về, bởi 80%  còn lại đã được quyết định ở các không gian bậc cao. Vì 80%  còn lại đó quá mơ hồ cho lý trí thông thường nên người ta thường cho đó là số mệnh.
 
Huyền học địa cầu nâng cấp rất nhanh trong giai đoạn gần đây, thuật ngữ  “Higher self” là một thuật ngữ xuất sắc để giải thích cho tình huống này. Có thể nói rằng, 80%  kết quả trả về cho công việc của một người ở không gian 3D là do các “Higher self” của họ thực hiện ở các không gian lớn hơn 3D, còn 20%  còn lại là do họ thực hiện ở không gian 3D. Dĩ nhiên, “Higher self”của người càng cao thì tỷ lệ hoàn thành công việc  ở không gian bậc cao càng cao; còn đối với các “Higher self” bị “cầm tù” và mất khả năng cảm ứng “Higher self” thì con số lại khác. Vất vả với nợ nghiệp mình tạo ra, vòng luân hồi của những người có “Higher self” bị cầm tù họ thật là đằng đẵng. Nói đến đây chúng ta đã vấp khái “số mệnh” thường biết.
Vậy liệu rằng số mệnh có tồn tại không vì chúng ta đã có các bề trên, có sự nâng đỡ, tại sao lại phải chịu khổ chịu cực đủ thế loại…?
Chúng ta đã bàn về Thiên Đạo, Thiên Luật và Thiên Cơ. Một sinh linh khi đi đầu thai, dưới quy định của Thiên Luật, các vị Thiên Sứ chấp sự sẽ sắp đặt cho sinh linh mang sứ mệnh, trả quả, chịu khổ hình hoặc hưởng phúc bằng cách xem xét sự tác động của Thiên Đạo để tính toán cho “số mệnh” của sanh linh đó. Hay nói cách khác, các vị Thiên Sứ sẽ tính toán giờ sinh, nơi sinh, sắp đặt một vài tình tiết nhân quả cho sanh linh sao cho tuân thủ Thiên Đạo, phù hợp với Thiên Cơ. Quy luật vận hành của các vì tinh tú ảnh hưởng đến số mệnh của sanh linh là Thiên Đạo; tính toán lựa chọn và tác động nhân quả cho sanh linh sao cho phù hợp với Thiên Đạo là nhiệm vụ của Thiên Sứ thực hiện theo Thiên Luật.
Sanh linh đầu thai phải trả nhân quả là Thiên Đạo, sanh linh quên chuyện tiền kiếp là Thiên Luật, sanh linh tu học sao cho tinh tấn hiệu quả thì nên tinh vào Thiên Cơ.
Vì thế, nếu sanh linh sinh ra mà hoàn toàn không có ký ức về tiền kiếp, điều đó chứng tỏ sanh linh đó nằm trong quản sự của Thiên Luật. Nói điều này để nhắc rằng, những Đạo Hữu Tu Đạo chưa hình dung được sự vận hành của Thiên Đạo, Thiên Luật thì chớ nên cho rằng đạo hạnh, pháp lực là do mình tự có, do minh tự đắc chứ không có bề trên không có Đấng Sáng Tạo nào cả. Trường hợp sanh linh sanh ra mà ký ức tiền kiếp hoàn toàn không mất, vậy thì Thiên Sứ nào đó đã để sai sót phận sự, hoặc sanh linh đó là một tồn tại mà Thiên Đình sẽ phải tìm kiếm.
 
Phương Đông nói uống canh Mạnh Bà trước khi đi đầu thai, Phương Tây cũng có nói về Thiên Sứ cho thuốc uống để sanh linh quên ký ức. Những mẫu chuyện đó nhằm để mô tả sự vận hành của Thiên Luật.
 
Vì sao Thiên Luật kỳ quái như vậy, bắt người ta quên ký ức của mình?. Đó là hiệu quả của việc tu học. Đối với con người ký ức nhân duyên một kiếp thật sự là quý giá, nhưng đối với linh hồn đó lại là một sự trở ngại. Cho nên tốt nhất là làm cho linh hồn quên đi. Việc quên đi ký ức gây ra trở ngại khá là lớn cho linh hồn vì mất đi sự tương liên của quá trình tu luyện.
 
Trong điều kiện khó khăn, sanh linh vẫn có niềm tin tưởng ở tâm linh, tin tưởng vào Đấng Sáng Tạo mà tự mình tinh tấn đó chính là mong muốn của Đức Thượng Đế. Trong quá trình học tập, các sanh linh mạnh dần lên và tới một ngày, họ nhớ lại tiền kiếp, thấy được sự vận hành của các không gian bậc cao và dự cảm được tương lai, cao hơn là kết nối được với các kho tri thức, năng lượng của vũ trụ từ đó giúp đỡ các sanh linh khác đang còn mãi miết chìm trong mờ mịt, khổ đau ngay tại không gian mình đang hiện hữu.
Quay lại nói về chuyện trả quả, hay cụ thể hơn là quả khổ. Các vị Thiên Sứ căn cứ tinh thần lực của sanh linh để tính toán xem một kiếp nhân sinh thì sanh linh có khả năng trả quả được nhiều ít. Nó giống như bạn nợ ngân hàng, thu nhập hàng tháng của bạn tốt thì phương cách trả nhiều hàng tháng là có thể còn ngược lại, thu nhập không tốt thì phải trả chầm chậm. Vì thế, cuộc đời của bạn đang diễn ra ba chìm bảy nổi thì hãy hiểu rằng: thứ nhất, bạn mắc nợ thật nhiều nên phải trả nhiều, thứ hai, bạn là người có năng lực nên mới có khả năng trả nhiều nợ như vậy trong một kiếp nhân sinh.
Vậy hãy ngừng oán thán số mệnh cực khổ của mình và thay bằng thái độ biết ơn bề trên đã kiến tạo cho bạn cuộc sống mà ở đó, cơ hội tiến hóa của bạn đang là cao nhất có thể. Vậy thì, nhân quả quyết định số mệnh là Thiên Đạo cải hóa nhân sinh, tạo điều kiện tu tập tốt nhất có thể thuận theo số mệnh là Thiên Luật; thuận nhân duyên tu tập tinh tấn hiệu quả “lái thuyền” số mệnh phải biết nương vào Thiên Cơ. Đời người, không gì quý hơn tu học tinh tấn. Một vị chân sư dạy rằng, đã chín tỷ năm đến nay con thuyền nhân quả cập bến cho một lần Đại Ân Xá.
Vì thế, Hội Long Hoa đợt này thật đặc sắc vô cùng so với những Hội Long Hoa trước đó. Một chu trình tiến hóa cho chúng linh tu học trải qua 3 Kỳ, Thượng Ngươn, Trung Ngươn và Hạ Ngươn đang dần kéo lên tấm màng kết cuộc. Chúng linh rồi sẽ sớm biết mình đang ở nấc thang nào của hành trình tiến hóa tâm linh. Trong suốt lịch sử của loài người, lần theo truyền kỳ của Huyền Môn của phương Đông, ta đã biết qua hai đợt Phong Thần:
1 - Đợt thứ nhất xảy ra và kỳ Tam Hoàng Ngũ Đế, khi đó văn tự chưa có tính phổ quát nên con người không được lưu lại bằng tác phẩm văn học, chỉ còn truyền thuyết mà thôi.
2 - Đợt thứ hai xảy ra vào thời Võ Vương phạt Trụ. Tác phẩm Phong Thần diễn nghĩa thi vị hóa câu chuyện, đưa ra thật nhiều bí ẩn mà giới tu chân vẫn thường tra cứu, khảo nghiệm. Và kỳ Long Hoa Hội này là đợt Phong Thần thứ Ba. Chúng ta sẽ có những danh vị Thần Tiên mới, có thoái vị, có bạn, có thăng cấp…Rồi sau đó, vào kỷ nguyên mới chúng ta sẽ có gì hay?. Câu trả lời là có rất nhiều thứ hay, ta hãy vụn vặt kể đến một vài thứ:
1 - Tuổi thọ tăng lên: Khi linh hồn hạ nhập không gian hữu hình linh hồn phải “khoác áo" ánh sáng và năng lượng tương ứng, được cấp nguyên khí để tồn tại. Nguyên khí là đại lượng bị hao mòn bởi lực bài xích không gian. Ở kỷ nguyên mới, lực không gian hội tụ mạnh nên nguyên khí có tốc độ hao mòn thấp và từ đó tuổi thọ của con người tăng lên. Sách sử có ghi lại rằng Ông Bành Tổ thọ 800 tuổi thời đại Hùng Vương tuổi thọ thường đạt trên 100 tuổi. Đứng ở kiến giải bằng không gian lực, việc này dễ hiểu là vậy. Tuổi thọ tăng, cơ hội tu học tiến hóa của con người sẽ tốt hơn rất nhiều.
2 - Các trường học pháp thuật sẽ xuất hiện và phổ biến: Bởi không gian 3D và không gian bậc cao được kéo lại gần nhau, việc sử dụng vật chất nhẹ của không gian bậc cao tại không gian bậc thấp hơn sẽ trở nên dễ dàng hơn. Khả năng vận dụng tinh thần lực của linh hồn cũng trở nên dễ dàng hơn. Do đó, quyền năng của tâm linh sẽ dễ phát huy hơn so với thời đại ngày nay. Điều này cũng đã được an bài để dễ hình dung. Con người hiện đại đã có những dự cảm về việc đó thông qua các tác phẩm như Harry Potter, các bộ tiên hiệp của Trung Quốc…
3 - Mức năng lượng tích cực của Mẹ Trái Đất nâng cao, cái xấu ô trược dễ dàng bị đẩy ra xa. Cái gọi là "hồng trần" khiến loài người chịu khổ chịu sầu bao lâu nay sẽ được làm giảm bớt rất nhiều trong xã hội loài người mới, nhiều vùng đất không có. Bởi vì địa cầu đã được tiếp cận lên cấp không gian cao hơn với ánh sáng đón nhận cao cấp hơn "hồng trần quang".
Hơn nữa, một số nơi trên mặt địa cầu còn là cõi thần tiên tại thế, những nơi mật độ linh khí đậm đặc. Sấm truyền đã nói nhiều về vùng đất Bảy Núi với Thiên Cấm Sơn là trung tâm sẽ là nơi tề tựu người hiền. Trong số họ, 108 vị chấp chưởng quản sự cõi thần tiên tại thế cũng được rõ ràng dần thân phận.
Dĩ nhiên, "lý lịch" của họ không phải là thông tin phổ quát. Khoa học và Huyền Môn được xích lại gần nhau. Con người sẽ được thụ hưởng các sản phẩm ứng dụng tiện ích chưa từng có. Các sản phẩm giao thoa giữa công nghệ và Pháp Thuật sẽ giúp cuộc sống của con người an nhàn hơn, đặng để họ có thời gian hướng nội, tìm kiếm sự tiến bộ, thăng hoa cho linh thể của mình. Và còn phong phú hơn nữa…Nhiều, rất nhiều linh hồn đang cảm ứng tốt và quay về tìm lại chính mình. Trong số họ, có không ít người trung thành với con đường Đạo Học, các đệ tử Huyền Môn đều đã đón nhận thông điệp của vũ trụ linh thiêng:
Lặng ngắm Thiên Cơ, đợi ngày chuyển thế!./.

Phần: [ 1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]

  Home Mục Lục: 1 ]  2 ]  3 ]  4 ]  5 ]  [ 6 ]  7 ]  8 ]  9 ]  10 ]  11 ]  12 ]  13 ]  14 ]  15 ]  [ 16 ]  17 ]  18 ]  [ 19 ]  20 ] .