Dân
tộc Bách Việt đã có truyền thống dưỡng sinh được khắc trên trống
đồng Đông Sơn, Ngọc Lũ, Mường, và Lô Lô nhưng bị mai một. Mãi đến
thế kỷ 20 mới khơi lại nguồn chảy dưỡng sinh, tại Thánh Địa Cao Đài Tây Ninh
vào thập niên 1927. Người Tín đồ Cao khởi luyện 12 bài tu tập của Đức Ngài Phạm
Công Tắc (Phạm Hộ Pháp). Truyền thụ cho những nguyên nhân trong và ngoài Đạo
Cao Đài, không phân biệt cộng đồng, và xã hội.
"Động Tĩnh" là
một phương tu "Y học phương Đông".
Thân
thể Tịnh tọa Động Tĩnh, theo công phu tự nhiên, và "Tịnh tọa"
thả lỏng để cho thân thể hấp thụ khí "Hạo Nhiên". Điễn hình bài tập
"Mười Hai Bài Luyện Tập Thân Thể", còn gọi là
"Đạo Dẫn Thân Thể" của Đức Hộ Pháp (Phạm Công Tắc).
Ngoài ra việc thực hành "Động Tĩnh" bao
gồm sử dụng các loại thuốc thảo dược, bổ sung khoáng chất, và áp dụng bằng
mát-xa toàn thân, có nguồn gốc từ thời dân tộc Bách Việt. Có phần tương đương
với Yoga, và
Ayurveda của Ấn Độ.
Mỗi
nhân sinh ở buổi đầu được sinh ra từ một tế bào, bắt nguồn phát triển từ những
hạt bụi vi sinh, trong vực thẳm sống dậy, tạo thành những mạng lưới cộng sinh, được
kết nối tất cả hạt bụi thành chúng sinh ngày nay.
Nguyên
thủy bụi vi sinh đã là thành viên sự sống của "Nguyên nhân" được lến
lên trong nhân bản vốn đức hạnh, và một thời gian đi qua cánh cửa toàn năng lĩnh
hội pháp môn Động Tĩnh.
Cho
nên trước khi nhập môn tu tập Động Tĩnh phải tự phán xét, và bỏ xuống tất cả
những thử thách cõi đời, để cho thân thể trống không.
Pháp
môn Dưỡng sinh Động Tĩnh, xây dựng trên nền tảng cơ bản, qua thời gian lâu dài,
bền chí, đi đôi với nguyên lý "hậu tích bạc pháp", có nghĩa là sau
khi tích lũy đủ nội lực thì mới có thể phát huy nhanh, vững chắc.
Nếu
những tu sinh "Động" (huyệt đối huyệt) chỉ đem lại ngoại thân dưỡng
sinh, tuy thấy thành tựu nhưng không giải quyết được nội Tâm "Tĩnh",
bởi thiếu nội lực "Khí lực", cho nên không thể phát huy thực thụ tinh
hoa của "Động Tĩnh", bởi vì trong Động Tĩnh có ba (3) công năng quý báu
"Tinh, Khí, Thần". Động Tĩnh xem trọng ngộ tính, và kiên trì khổ tập
luyện lâu dài.
Triết
lý của Động Tĩnh "Be Like Water" (hãy như nước) thả lỏng nội ngoại
tâm, quên đi bản thân cõi đời, không động thì thân ta không động, khi đó tư duy
mới có khả năng nhập vào ngoại giới. Nếu cõi đời động mà thân ta cũng động sẽ
tự hại chính mình, bởi vậy thân ta phải ý thức thả lỏng để tiếp nhân sức mạnh
mẽ của Tỉnh. Nhất là thuận theo tự nhiên không được gò bó trong khuôn khổ bị hạn chế, khiến
trạng thái hoạt động mất phát triển tự nhiên. Không được đi vào bế tắc mà phải
biến bế tắc thành hanh thông.
Như đã nói ở trên, khi tu tập Động Tỉnh, bản thân của
chúng ta hãy biến Động Tĩnh như dòng nước chảy tự nhiên. Từ đó Động Tỉnh biến
thành vô ảnh, nhưng nội lực chính thức trở thành phi thường lướt trên mặt nước.
Tuy nước là vật thể yếu nhất trên thế gian này, nhưng nó là sức mạnh vô biên, có
khả năng làm xuyên qua những dãy núi đá kiêm cương. Cho thấy nước không hề bị tổn
thương, đó là ranh giới đạt đến hiện thực của pháp môn Động Tỉnh.
Bây giờ thân thể của chúng ta như một cánh chim bay trên
mặt nước, bỗng nhiên thấy cảnh giới làn sóng lăng tăng, cho chúng ta đắm chìm vào
huyền diệu của nước.
Pháp môn Đông Tĩnh mở rộng thân thể không để bị rơi vào
trạng thái căng thẳng, mà phải để thân thể thuận theo tự nhiên. Cũng như chúng
ta để con thuyền tự trôi theo gợn sóng, và từ đó có cảm giác hòa nhập vào thế
giới tự nhiên. Thân thể tự đạt đến hài hòa không còn cố chấp qua những động tác.
Pháp môn Động Tĩnh truyền thống ngoài việc nền tảng nội lực lâu dài, còn cần đến
ngộ "Nội hàm" phát huy nội lực vô tận, để đạt đến tần ngoại giới.
Mỗi môn sinh cần
phải có ngộ tính
tốt, và cảm nhận một tầng sâu tâm linh, ngộ tính không phải là thông minh như
người đời suy nghĩ. Vốn con người có khả năng tiếp thu phi thường, vượt qua giới
hạn để hòa nhập vào không gian.
Ngoài ra truyền thống căn bản của Động Tĩnh, còn có
quy luật "cương kình", và "Tâm linh". Cho nên mỗi tu sinh,
bỏ xuống mọi tranh chấp mới có thể thành tựu, "cương kình" của nước, đó
là điểm ngộ đạo lý Động Tỉnh.
Đặc điểm Pháp môn Động Tĩnh, nếu tâm không tịnh khó học được những tinh hoa, thể pháp, bí pháp.
Mới Quý Hiền thực hiện pháp môn Động Tĩnh Dưỡng Sinh:
1 - Trị liệu toàn thân:
Phần một (1): Mười ngón tay đang lại với nhau. Phần trên
là mười ngó tay, phần dưới là đôi lòng bàn tay. Chúng ta xoa cả lòng bàn tay, tự
thấy mười ngón tay cũng xoa theo. Xoa cho đến khi nào lòng bàn tay nóng.
Phần hai (2) Bắt ấn Tý: Chấp hai tay lại bắt vào vị trí huyệt "Hợp cốc" giữa ngón cái và ngón trỏ, hơi
lệch về phía với ngón trỏ, trên đường giữa đi qua xương bàn ngón hai. Bên ngoài
da, hợp cốc nằm gần cuối của rãnh xuất hiện khi ngón tay cái khép lại với ngón
trỏ.
Nơi đây, tập trung dày đặc các dây
thần kinh,
nhận nhiều phản hồi xúc giác, là nơi định vị lớn nhất trên cơ thể. Vì vậy, đôi bàn
tay hoạt động liên tục, bởi nó ý thức mật thiết với hệ thần kinh. Tức thì mười ngón tay đem
lại thần kinh hết mỏi mệt cả thân thể.
Sáng sớm xoa vào nhau
khoảng 50 lần tạo từ trường năng
lượng. Chống đau lưng, giúp ấm bụng, giảm say tàu xe, chống
nôn, tiêu hóa tốt, và thư giãn.
2 - Chải Da Đầu:
Dùng 10 đầu
ngón tay chải tóc từ trước chân tóc trán ra sau gáy 24 lần, giúp thông khí huyết,
chống bạc, chống rụng tóc, làm đen tóc, và cả da đầu được thông mạch máu.
3 - Xoa trán:
Dùng hai
bàn tay chồng lên nhau, lấy bàn tay bên dưới xoa vùng trán 24 lần, giúp thông xoang trán,
tăng trí nhớ, chữa đau đầu.
4 - Xoa Lông Mày:
Dùng cườm tay - phần thịt mềm ở lòng
bàn tay day vào hai bên hốc mắt theo chiều kim đồng hồ giúp bổ gan, sáng mắt,
chống cận thị, viễn thị, chảy nước mắt, tắc tuyến lệ.
6 - Day Sống Mũi:
Ép 2 ngón tay cái vào nhau, xát vào
2 bên sống mũi từ dưới lên trán, từ trán xuống sống mũi 24 lần. Giúp thông phế,
chữa ho, chữa viêm xoang, trị hen suyễn, sổ mũi, hắt hơi, cảm cúm, chống đau
lưng, đầu gối. Nếu đau lưng thì ấn nhẹ tay lên sống mũi đoạn giữa hơi chếch
xuống phía dưới có chỗ mềm hơn đỡ đau lưng.
7 - Xoa Vùng Má:
Dùng bàn tay xoa mạnh vùng má từ gò
má xuống cằm giúp bổ thận, khỏe dạ dày, lợi phổi, hạn chế thâm quầng, nếp nhăn
trên da.
8 - Đánh Răng Miệng:
Dùng hai hàm răng gõ vào nhau 24
lần. Lấy đầu lưỡi rê dọc các chân răng hàm trên, hàm dưới, bên trong, bên ngoài
24 lần. Đến khi nước bọt trong miệng đầy, chia làm 3 lần nuốt chậm từ từ xuống dạ
dày. Giúp bổ thận, chắc răng, không sâu răng, chữa viêm đại tràng, dạ dày, ợ
hơi, viêm họng mãn, ho, hôi mồm, u bướu trong cơ thể, ngăn ngừa ung thư. Không
nên sáng dậy là đánh răng ngay vì nó làm tiêu tán mất kháng sinh tự nhiên của
cơ thể. Ăn xong 15 phút cần đánh răng ngay để vi khuẩn không có thức ăn gây
hỏng răng, đau răng.
9 - Xoa Vùng Môi, Miệng:
Dùng lòng bàn tay xoa vùng
môi, quanh miệng theo kim đồng hồ 24 lần giúp cho tim khỏe mạnh, hạn chế hoa
mắt chóng mặt, hụt hơi, tức ngực, khó thở, chống táo bón, viêm đại tràng, viêm
đường tiết niệu.
10 - Xoa Vùng Gáy:
Dùng hai bàn tay xoa hai vùng gáy
phía sau đầu từ trên xuống giúp lợi gan sáng mắt, chống cận thị, viễn thị, giảm
đau vai gáy, đau cánh tay, tê tay, giảm đau nửa đầu, tăng trí nhớ, chống viêm
xoang gáy.
11 - Xoa Vùng Cổ:
12 - Xoa Vùng Tai:
Dùng bàn tay xoa vành tai giúp máu lưu
thông giảm đau đầu, dễ ngủ, ngăn ngừa tai biến mạch máu não, và tăng trí nhớ.
13 - Xoa Vùng Xương Quai Xanh:
Hốc xương quai xanh
phía ngoài (bồn khuyết) dùng các ngón tay day đi day lại phá các u cục do thoái
hóa đốt sống cổ gây ra. Hạn chế tai biến mạch máu não gây liệt nửa người.
14 - Xoa Vùng Thắt Lưng:
Dùng hai lưng ngón tay cái
xoa về phía sau lưng từ trên xuống để ấm hai quả thận chống đau lưng, bổ thận
khí, ngừa thoát vị đĩa đệm, giải độc thận.
15 - Xoa Vùng Ngực:
Dùng bàn tay bên này xoa ngực bên
kia, chuyền tình cảm vào hai lá phổi và các bộ phận mỗi khi xoa bóp giúp cơ thể
cảm nhận được và khỏe mạnh.
16 - Xoa Vùng Tim:
Dùng bàn tay phải xoa vùng tim ở
giữa ngực thiên về phía trái giúp tim nhận được năng lượng và khỏe mạnh.
17 - Xoa Vùng Gan:
(nằm ở bên trái phía tim nghiêng
xuống phía dưới, sang phải). Xoa 24 lần và truyền tình cảm vào gan, hỗ trợ cho
gan khỏe mạnh.
18 - Xoa Ruột Non (xung quanh vùng rốn):
Dùng bàn tay
xoa 24 lần xung quang rốn giúp ruột non khỏe mạnh, chống viêm xoang, hắt hơi,
sổ mũi, cảm cúm, viêm đại tràng, ăn không tiêu, lạnh bụng.
19 - Xoa Ruột Già (bên ngoài vùng ruột non):
20 - Xoa 2 Bên Đầu Gối:
Xoa hai đầu gối và huyệt huyết
hải phía trong bên trên, túc tam lý phía ngoài bên dưới) ở chéo nhau giúp thông
huyết, bổ khí, trường thọ, nhuận da, sáng mắt.
21 - Xoa Huyệt Tam Âm Giao:
(dùng 4 ngón tay đo từ mắt
cá phía trong lên) day 24 lần giúp thông dạ dày, phổi, thận, trẻ lâu, đặc biệt
làm sáng da , chống nếp nhăn cho chị em nữ.
22 - Xoa Gan Bàn Chân (Dũng tuyền):
Gan bàn chân có
gần 100 huyệt đạo, đặc biệt là phổi, tim, thận, gan, dạ dày. Xoa 24 lần giúp
nóng bàn chân chữa ho, viêm xoang, cảm cúm, hắt hơi, hen suyễn, đau tim, đau
nhức xương khớp.
23 - Sau Bàn Chân.
Dùng tay bóp phía sau cổ chân
giáp bàn chân giúp bổ thận, chống viêm và chảy máu đường tiết niệu. Nếu thấy
đau cứng là đường tiếu niệu kém cần day nhiều lần hơn. Đái ra máu mà day vào
giúp cầm máu rất nhanh kết hợp uống lá nhọ nồi, lá mật gấu, lá hoàn ngọc.
24 - Day Huyệt Giải Độc Gan (Thái xung):
Giúp sáng da,
giảm ngứa, sáng mắt, giải độc cơ thể. Nếu day thấy đau là gan độc tố nhiều, cần
day nhiều để giải độc.
25 - Day Cổ Tay (phần giáp giữa bàn và tay và cánh
tay):
Giúp thông cổ, giảm thoái hóa đốt sống cổ, tê tay, tê mỏi vai, chuột rút
vùng tay, ngón tay. Đau tay bên này day cổ tay bên kia.
26 - Day Cánh Tay:
Lưng cánh tay đoạn giữa phía ngoài
sờ vào thấy cứng, bóp mạnh rất đau là thoái hóa đốt sống lưng. Bạn chỉ cần day
nhẹ 24 lần là lưng nhẹ cảm nhận được ngay.
27 - Day Bụng Cánh Tay (đối diện với vùng lưng phía
trên - nơi ở giữa khủy tay):
Bóp vào thấy có cục nhỏ và đau là bị co thắt động
mạch vành tim hoặc hở van tim, hay hoa mắt, hụt hơi, đau tức vùng ngực, khó
thở. Day 24 lần giúp người khoan khoái, thở sâu, lâu mệt. Người bị ngất chỉ cần
vỗ mạnh vào 24 lần là tỉnh ngay.
28 - Sơ đồ áp dụng dưỡng sinh:
* Biên Tập HT/Huỳnh Tâm.