CHƯƠNG MỘT.
KINH CÚNG TỨ THỜI.
TIẾT 1. GIỚI THIỆU KINH.
TIẾT 2. GIẢI NGHĨA BÀI NIỆM HƯƠNG.
CHƯƠNG HAI.
BÍ PHÁP TRONG BÀI NIỆM HƯƠNG.
TIẾT 1: NHỮNG TỪ VỰNG CẦN NẮM BẮT.
TIẾT 2. CAO ĐÀI
LÀ GÌ? CAO ĐÀI LÀ TRUNG TÂM. ĐIỂM TRONG NÃO
NGƯỜI.
TIẾT 3. NGŨ PHẦN HƯƠNG.
TIẾT 4. TỌA TỊNH & PHÉP THỞ BỤNG.
TỔNG KẾT PHẦN BÍ PHÁP.
CHƯƠNG MỘT
KINH CÚNG TỨ THỜI
TIẾT 1. GIỚI THIỆU KINH
Tứ Thời là bốn điểm thời gian trong một ngày, đó là vào các giờ:
0 giờ (tức 12 giờ khuya) thuộc giờ Tý.
6 giờ sáng thuộc giờ Mẹo.
12 giờ trưa thuộc giờ Ngọ.
18 giờ (tức 6 giờ chiều) thuộc giờ Dậu.
Nghi lễ của Ðạo Cao Ðài dạy các tín đồ cúng Ðức Chí Tôn và các Ðấng Thiêng
liêng vào Tứ thời kể trên, bởi vì vào bốn thời điểm nầy, khí Dương và khí Âm
trong Càn Khôn Vũ Trụ có sự biến đổi tương đối đặc biệt:
Lúc 0 giờ, thời Tý: Khí Âm cực thạnh,
khí Dương khởi sanh.
Lúc 6 giờ và 18 giờ, thời Mẹo và thời Dậu: Hai khí Dương và Âm giao hòa cân
bằng nhau.
Lúc 12 giờ trưa, thời Ngọ: Khí Dương cực thạnh, khí Âm khởi sanh.
- Thời Tý và thời Ngọ: Cúng Rượu (Rượu trắng).
- Thời Mẹo và thời Dậu: Cúng nước Âm Dương, tức là cúng nước trà và nước trắng
thiên nhiên.
Kinh Cúng Tứ Thời: là các bài kinh để tụng cúng ÐỨC CHÍ TÔN và ba GIÁO CHỦ
TAM GIÁO vào bốn thời điểm kể trên trong một ngày. Kinh cúng Ðức Chí Tôn vào Tứ
thời tại Tòa Thánh hay tại Thánh Thất gồm 8 bài kinh sau đây:
1 . Niệm Hương.
2 . Khai Kinh.
3 . Kinh Ngọc Hoàng Thượng Ðế.
4 . Kinh Phật giáo.
5 . Kinh Tiên giáo.
6 . Kinh Nho giáo (Thánh giáo).
7 . Bài Dâng Hoa, Dâng Rượu, Dâng Trà.
8 . Ngũ Nguyện.
Kinh cúng ÐỨC PHẬT MẪU vào Tứ thời tại Báo Ân Từ hay tại Ðiện Thờ Phật Mẫu
gồm 6 Bài Kinh:
1 . Niệm Hương.
2 . Khai Kinh.
3 . Phật Mẫu Chơn Kinh.
4 . Tán Tụng Công Ðức Diêu Trì Kim Mẫu.
5 . Bài Dâng Rượu hoặc Dâng Trà.
6 . Ngũ Nguyện.
Bài kinh đọc trước tiên là bài Niệm Hương, tuy ngắn nhưng chứa bí pháp luyện
Đạo trong đó. Nếu suy gẫm kỹ, người tín đồ mới nhận biết được.
TIẾT 2. GIẢI NGHĨA BÀI NIỆM HƯƠNG
A. NỘI DUNG BÀI NIỆM HƯƠNG (Giọng
Nam ai)
1 . Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp.
2 . Lòng nương nhang khói tiếp truyền ra.
3 . Mùi hương lư ngọc bay xa.
4 . Kính thành cầu nguyện Tiên gia chứng lòng.
5 . Xin Thần, Thánh ruổi dong cỡi hạc,
6 . Xuống phàm trần vội gác xe Tiên.
7 . Ngày nay Đệ tử khẩn nguyền,
8 . Chín tầng Trời, Đất thông truyền chứng tri.
9 . Lòng sở vọng gắng ghi đảo cáo,
10. Nhờ Ơn Trên bổ báo phước lành.
(Lạy 3 lạy, mỗi lạy 4 gật, mỗi gật
niệm Câu Chú của Thầy:
Nam mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát)
B. GIẢI NGHĨA BÀI KINH.
Niệm Hương là đốt nhang và tưởng niệm các Ðấng thiêng liêng. Kinh Niệm
Hương có nguồn gốc là bài Kinh chữ Hán "Phần Hương Chú" trích trong
Kinh Cảm Ứng của Tiên giáo. Vào năm Ất Sửu (1925), Ðức Nam Cực Chưởng Giáo
giáng cơ tại Minh Lý (Tam Tông Miếu) dịch bài Phần Hương Chú ra chữ Nôm cho dễ
hiểu.
Khi mới khai ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ, Ðức Chí Tôn giáng dạy Ngũ Chi Minh Ðạo
(Minh Sư, Minh Lý, Minh Tân, Minh Thiện, Minh Ðường) Dâng Kinh cho ÐÐTKPÐ. Do
đó, Hội Thánh cử phái đoàn đại diện gồm bốn vị: Ðức Quyền Giáo Tông Lê văn
Trung, Thượng Giáo Sư Vương quan Kỳ, Ðức Phạm Hộ Pháp, Ðức Cao Thượng Phẩm cùng
đến Chi Minh Lý thỉnh sáu Bài Kinh: Niệm Hương, Khai Kinh, Kinh Sám Hối, Bài
Khen Ngợi Kinh Sám Hối, Kinh Cầu Siêu, Bài Xưng Tụng Công Ðức Phật Tiên Thánh
Thần, về làm Kinh ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ.
Câu 1. Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp.
ĐẠO LÀ GÌ? Ðức Chí Tôn dạy về chữ Đạo như sau:
"Ðạo là con đường để cho Thánh, Tiên, Phật đọa trần do theo mà hồi cựu
vị. Ðạo là đường của các nhơn phẩm do theo mà lánh khỏi luân hồi. Nếu chẳng phải
do theo Ðạo thì các bậc ấy đều lạc bước mà mất hết ngôi phẩm. Ðạo, nghĩa lý rất
sâu xa, nhưng phải hiểu trước bao nhiêu đó rồi mới học các nghĩa huyền bí khác
cho đích xác đặng." (TNHT.II.3).
Nghĩa thông thường của Ðạo là tôn giáo.
Thành: Thành thật. Tín: Tin, tin có Thượng Ðế, tin có Thần, Thánh, Tiên, Phật,
tin mỗi người đều có linh hồn bất tiêu bất diệt, tin linh hồn là điểm Linh
quang do Thượng Ðế ban cho mỗi người để tạo nên sự sống và gìn giữ sự sống.
Câu 2. Lòng nương nhang khói tiếp truyền ra.
Tấm lòng thành thật và đức tin mạnh mẽ sẽ theo nhang khói truyền đến cõi vô
vi xa xôi, có chư Thần Thánh Tiên Phật ngự.
Câu 3. Mùi hương lư ngọc bay xa.
Mùi hương: Mùi thơm của khói nhang tỏa ra, ý nói những tư tưởng hay ý nghĩ
trong sạch tốt đẹp của cái Tâm phát ra.
Lư: Dụng cụ đặt trên bàn thờ dùng để đốt trầm hay để đốt nhang cắm vào; đốt
trầm thì gọi là Lư trầm, đốt nhang thì gọi là Lư hương. Ngọc: Loài đá quí, chỉ
sự quí báu.
Lư ngọc: Cái lư bằng ngọc, chỉ cái Tâm quí báu của con người. Khi cúng, những
tư tưởng, ý nghĩ trong sạch, cao thượng nơi TÂM nương theo khói nhang truyền
lên Trời cao.
Câu 4. Kính thành cầu nguyện Tiên gia chứng lòng.
Tiên Gia là Ông Cha Tiên, đó là Ðại Từ Phụ, Ðấng Cha chung thiêng liêng của
toàn cả vạn linh sanh chúng trong Càn Khôn Vũ Trụ, mà ta thường gọi là Ðức Chí
Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế. Khi cầu nguyện, tâm ta động thì Ðức Chí Tôn sẽ hay biết
và chứng nhận.
Câu 5,6. Xin Thần, Thánh ruổi dong cỡi hạc, Xuống phàm trần vội gác xe
Tiên.
Hạc: Giống chim lớn, chân cao, cổ dài, lông trắng, bay nhanh, dáng thanh
nhã, sống đến ngàn năm, thường được các vị Tiên dùng để cỡi bay đi. Phàm trần
là chỉ cõi thế gian, cõi của nhơn loại đang sống. Xe Tiên: Chiếc xe mầu nhiệm nơi cõi thiêng
liêng, cũng gọi là Xe Như Ý, dùng để chở các vị Tiên đi lại. Người ngồi trên xe
muốn đi đến đâu thì chiếc xe Tiên hay xe Như Ý chở ngay đến đó tức khắc. Gác xe
Tiên: dừng xe Tiên.
Xin các Ðấng Thần Thánh cỡi hạc hoặc đi trên chiếc xe Tiên dong ruổi cõi thế
gian.
Câu 7. Ngày nay Đệ tử khẩn nguyền,
Ðức Chí Tôn tự xưng là Thầy, và gọi các con đang học đạo là môn đệ hay đệ tử.
Chúng con tha thiết cầu nguyện cùng Ngài.
Câu 8. Chín tầng Trời, Đất thông truyền chứng tri.
Chín từng Trời: Chữ Hán gọi là Cửu Trùng Thiên. Chín từng Trời nầy có tên
theo đúng 9 bài Kinh Tuần Cửu, kể từ thấp dần lên cao là:
1 . Từng Trời thứ nhứt có Vườn Ngạn Uyển.
2 . Từng Trời thứ nhì có Vườn Ðào Tiên của Phật Mẫu.
3 . Từng thứ ba gọi là Thanh Thiên.
4 . Từng thứ tư gọi là Huỳnh Thiên.
5 . Từng thứ năm gọi là Xích Thiên.
6 . Từng thứ sáu gọi là Kim Thiên.
7 . Từng thứ bảy gọi là Hạo Nhiên Thiên.
8 . Từng thứ tám gọi là Phi Tưởng Thiên.
9 . Từng thứ chín gọi là Tạo Hóa Thiên.
“Từng Trời thứ 9 gọi là Cung TẠO HÓA THIÊN, có vị cầm quyền tạo
đoan gọi là Thiên Hậu” (TÐ.ÐPHP.Q1)
Từng Trời thứ 10 nằm bên trên Cửu Trùng Thiên, đó là HƯ VÔ THIÊN do Đức Nhiên Đăng chưởng quản. Còn HỘI
NGUƠN THIÊN là từng Trời thứ 11, và HỖN NGUƠN THIÊN là từng Trời thứ 12. Cả hai
từng 11, 12 hiện do chư vị Cổ Phật và Đức DI LẶC VƯƠNG PHẬT chưởng quản.
Lời khẩn nguyền của đệ tử sẽ được truyền đi suốt đến 9 từng Trời và nhiều
quả Ðịa cầu để các Ðấng thiêng liêng chứng thực biết rõ.
Câu 9. Lòng sở vọng gắng ghi đảo cáo.
Ðiều quan trọng mà lòng mình hằng mong ước, sẽ cầu nguyện và tấu trình lên
các Ðấng Thiêng liêng.
Câu 10. Nhờ Ơn Trên bổ báo phước lành.
Cầu xin Ðức Chí Tôn, Ðức Phật Mẫu và các Ðấng thiêng liêng phù hộ và ban
cho phước lành.
Lạy và niệm Câu Chú của Thầy tức là của Ðức Chí Tôn. Câu chú này có 12 chữ:
Nam-mô Cao-Đài Tiên-Ông Đại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.
1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11,
12: do phiên âm từ tiếng Pali "Namô" hoặc từ tiếng Phạn
"Namah", dịch nghĩa là: Qui mệnh, kỉnh lễ, cúi đầu làm lễ.
Cao Ðài: Cái đài cao, dùng làm nơi ngự của Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế
khi có Ðại hội triều đình của Ðức Chí Tôn tại Linh Tiêu Ðiện Ngọc Hư Cung.
Tiên Ông: Ông Tiên, vị Tiên. Ðại: lớn.
Bồ-Tát: tiếng Phạn là Bodhisattva, nghĩa là người đã tự giác được bản tánh
và muốn trợ giúp chúng sanh giác ngộ. Bồ-tát muốn tu tập trên con đường Bồ-tát
đạo để trở thành Phật, cần phải có đại nguyện rộng lớn vì lợi ích của chúng
sinh (được một vị Phật thụ ký) và có kiến thức Phật pháp thiện xảo. Để được một
vị Phật thụ ký thì vị đó cần có các điều kiện sau:
- Hoàn thiện các điều kiện cần thiết để có thể chứng quả A-la-hán trong kiếp
hiện tại,
- Hành động công đức (có thể xả thân để bảo vệ Phật Pháp), có thập độ như:
bố thí, trì giới, trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nhục, chân thật, quyết định, bác ái,
từ bi, hỷ xả.
- Có ý nguyện hoàn thành mục tiêu dù có rơi vào nghịch cảnh và phát tâm Vô
thượng vì lợi ích của chúng sinh.
Ma-Ha-Tát: Nói đầy đủ là Ma-Ha-Tát-Ðóa, tiếng Phạn là Mahasattva, nghĩa là
Ðại chúng sanh, là người có đủ BI, TRÍ, DŨNG.
Ðại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát là vị Bồ Tát lớn, ở phẩm bực cao trọng, vào hàng Phật
vị, nhưng vì còn nhiệm vụ cứu độ chúng sanh nên mang danh Bồ Tát Ma Ha Tát, có
lòng quãng đại cứu độ chúng sanh.
Câu Chú của Thầy có 12 chữ là vì con "số 12 đặc biệt là số riêng của
Thầy".
Trong danh xưng “CAO ĐÀI (Nho giáo) TIÊN ÔNG (Đạo giáo) ĐẠI BỒ TÁT MA HA
TÁT (Phật giáo), Đức Chí Tôn ngụ ý Tam-Giáo vốn cùng một gốc mà ra, gốc đó là
Thượng Đế. Tam giáo đồng tông ngày nay qui nguyên thành Ðại Ðạo. Ðó chính là ÐẠI
ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ, tức là Ðạo Cao Ðài do Ðức Chí Tôn sáng lập và làm Giáo Chủ.
CHƯƠNG HAI
BÍ PHÁP TRONG BÀI NIỆM HƯƠNG,
TIẾT 1: NHỮNG TỪ VỰNG CẦN NẮM BẮT,
ĐẠO 道 có nghĩa đen là đường đi. Theo nghĩa bóng, ĐẠO là
đường lối, phép tắc đối nhơn xử thế của con người. Chữ ĐẠO ở đây được hiểu theo Đạo làm người hay Nhân đạo trong
hình nhi hạ của Nho giáo. Đến thời Lão Tử, một Đạo gia đầu tiên của Trung Quốc
đưa ra thuyết bản căn của Vũ trụ và đề xướng Đạo luận. Từ đó ĐẠO được hiểu với
nghĩa hình nhi thượng, tức là Thiên Đạo. Theo Đạo Đức Kinh, Đạo là bản căn của
Càn Khôn Thế giới, là nguyên lý từ đó mà vạn vật được sinh ra, muôn loài noi
theo, là cái qui luật chi phối sự sinh thành biến hóa của Trời đất và muôn vật.Theo
tôn giáo Cao-Đài, Đại-Đạo là con đường của Đức Chí Tôn dẫn đến bờ giải thoát.
Phương pháp của Đức Chí Tôn dạy trong thời kỳ Đại Ân Xá là phụng sự nhân loại
và phổ độ chúng sanh để lập Công, lập Đức, lập Ngôn. Nhờ vào đó, nghiệp chướng
tiền khiên được xóa bỏ giúp sớm được giải thoát khỏi luân hồi sinh tử. Thánh
giáo Đức Chí Tôn nói về chữ Đạo như sau:
“Đạo là con đường để cho Thánh, Tiên, Phật đọa trần
do theo mà hồi cựu vị. Đạo là đường của các nhơn phẩm do theo mà lánh khỏi luân
hồi. Nếu chẳng phải do theo Đạo thì các bậc ấy đều lạc bước mà mất hết ngôi phẩm”.
Đạo rất cần ích cho cá nhân và xã hội. Người có Đạo
sợ luật Trời, kiêng phép nước, biết trọng luân thường đạo đức, biết thương yêu
đồng loại. Một nước có Đạo, xã hội sẽ trật tự, an ninh, dân chúng được hòa bình
hạnh phúc. Do đó, mỗi con người sống ở thế gian, phải luôn có Đạo trong lòng,
chẳng nên lìa xa giây phút nào.
ĐẠO TẠI TÂM. Chúng ta cần phân biệt hai loại tâm:
Đó là Tâm thật (Chơn tâm), Thành tâm 誠 心
và Tâm giả (Giả tâm).
Tâm Thật: CHƠN TÂM của chúng ta, gọi là PHẬT TÁNH,
THIÊN TÁNH.
Tâm giả: Tâm mà con người dùng để sống hằng ngày ở
cõi thế gọi là VỌNG TÂM.
Tuân Tử cho rằng: “Quân tử dưỡng tâm thì không gì
tốt bằng luyện đức thành. Hễ chí thành rồi thì không còn việc gì làm hại được
tâm nữa. Thành tâm giữ lấy điều nhân, thành tâm làm theo điều nghĩa. Hễ thành
tâm giữ điều nhân thì niềm thành tâm tất hiện ra ngoài tất có hiệu lực thần diệu,
thần diệu thì cảm hóa được người; hễ thành tâm làm điều nghĩa thì tất thấu lý,
thấu lý thì tất sáng, sáng thì tất biến đổi lòng người…
TÍN 信: Hay tín tâm, tức là lòng
tin tưởng, đức tin. Bất cứ một Tôn giáo
nào cũng lấy lòng tin tưởng làm gốc. Lòng tin rất cần thiết cho người theo Đạo
và giữ Đạo. Có được lòng tin con người mới vững vàng tu học. Song lòng tin phải
có trí phán xét, chỉ nên hướng về nẽo chánh, điều thiện, cao thượng. Chớ không
nên bạ đâu tin đó, không phân biệt chánh tà thì dễ sa vào bàng môn tả đạo, mê
tín dị đoan. Có lòng tin vào Trời, Phật và các Đấng Thiêng Liêng, tin tưởng có
linh hồn bất tiêu bất diệt thì chúng ta mới sùng bái, học theo đức háo sinh của
các Đấng, không dám tạo ác nghiệp.
Câu 1: Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp.
Câu 2: Lòng nương nhang khói tiếp truyền ra.
Câu 3: Mùi hương Lư Ngọc bay xa.
Mùi hương tức là thanh-khí trong con người.
LƯ NGỌC: Lư hương bằng ngọc. Nhưng chữ ngọc ở đây
dùng với nghĩa là quý báu, tôn kính, tượng trưng, chứ không phải làm bằng ngọc
thật. Đối với các nhà Đạo học, Lư-Ngọc được xem như viết tắt của hai huyệt Vĩ
Lư và Ngọc Chẩm.
Lư là ám-chỉ huyệt VĨ-LƯ ở đuôi cột sống.
Ngọc là ám-chỉ huyệt NGỌC-CHẨM ở sau ót.
Dùng khí thanh-dương mà nung-nấu các huyệt Vĩ-Lư
và Ngọc-Chẩm.Khi Khí theo hai huyệt VĨ-LƯ và NGỌC-CHẨM giao nhau thì con người
sẽ mở được HUỆ QUANG KHIẾU.
HUYỀN QUAN KHIẾU 玄 關 竅 A: The mysterious hole under sternum.
Huyền: Màu đen, sâu kín, mầu nhiệm. Quan: cái cửa ải. Khiếu: cái lỗ hổng trong
cơ thể con người. Huyền Quan Khiếu, còn được gọi bằng nhiều tên khác là: Huyền
khiếu, Tổ khiếu, Thiên môn, Côn lôn đảnh.
Nó ở trong bộ não, phía dưới NÊ HOÀN CUNG (mỏ ác= Vi hộ), ngang cặp lông mày,
là cửa xuất nhập của Chơn thần.
“Người tu hành, chừng nào luyện Tinh hóa Khí, luyện
Khí hóa Thần, luyện Thần huờn Hư, luyện Hư huờn Vô, thì Huyền Quan nhứt khiếu ấy
mở hoát ra”.
Huyền Quan khiếu thuộc Tiên Thiên khiếu, phân biệt
với Thất khiếu (2 tai, 2 mắt, 2 mũi, 1 miệng) là Hậu Thiên khiếu. Người tu luyện
công phu thâm hậu, đạt tới giai đoạn cực tĩnh thì Huyền Quan khiếu xuất hiện, mở
ra. Lúc nầy, Tiên Thiên khí ra vào qua khiếu Huyền Quan. Nó là then chốt của tất
cả các khiếu trong cơ thể. Khiếu Huyền Quan mở ra là phép luyện đạo đã đắc
thành rồi vậy. Người tu thực hành các phép luyện đạo có mục đích khai thông khiếu
Huyền Quan, bằng cách thúc đẩy luồng chơn khí trong cơ thể đánh phá dần dần,
làm cho Huyền khiếu (bị vô minh đậy bít) được khai thông, trí não phát sáng,
thông huệ lạ thường, thấu suốt chơn lý. Chơn thần nhờ đó mà có thể xuất nhập thể
xác đi đến các cõi thiêng liêng.
Thánh và phàm chỉ khác nhau ở chỗ: Khiếu Huyền
Quan mở hoát ra hay đóng bít lại.
Huyền Quan Khiếu là diệu khiếu “lìa tướng”, nên nhờ
vào Huyền quan khiếu để thâu nhiếp vọng tâm, hàng phục vọng niệm.
Câu 4: Kỉnh thành cầu nguyện Tiên gia chứng lòng.
TIÊN GIA 仙 爺:
Tiên gia: Đấng Tiên Ông. Đây chỉ Đức Đại Từ Phụ là một đấng Tạo Hóa ra Càn Khôn
Vũ Trụ, là Đấng Cha chung của Vạn-Linh sanh chúng.
Câu 5: Xin Thần, Thánh rủi dong cỡi hạc.
Câu 6: Xuống phàm trần vội gác xe Tiên.
Gác xe Tiên: dừng chiếc xe Tiên lại. Xe Tiên là phương tiện để chư vị Thần Tiên du
hành. Như Đức Thái Thượng Lão Quân thường đi xe Như ý.
Xe tiên: nghĩa bóng chỉ Ngươn-thần, Ngươn-khí
trong thân người. Phải đưa Ngươn-thần, Ngươn-khí xuống dừng ở HẠ-ĐƠN-ĐIỀN. HẠ-ĐƠN-ĐIỀN
ở ngay Rún.
Phàm trần: nơi hỗn-tạp nhất trong thân người, ám
chỉ HẠ-ĐƠN-ĐIỀN.
Câu 7: Ngày nay đệ tử khẩn nguyền.
ĐỆ TỬ 弟 子:
Là học trò. Đệ tử là tiếng tự xưng của người học trò, tức là môn đệ của Đức Chí
Tôn. Đức Chí Tôn giáng cơ khai nền Đại Đạo, tự xưng là Thầy và gọi các tín đồ
theo Đạo là môn đệ hay đệ tử. Đệ tử ở đây là lời tự xưng của chư môn đồ của Đức
Chí Tôn.
Câu 8: Chín tầng Trời Đất thông truyền chứng tri.
CỬU TRÙNG THIÊN 九 重 天 :
Chín từng Trời.
ĐẤT : các Địa cầu ở thế gian, ý chỉ 72 Địa cầu mà
Đức Chí Tôn đã dạy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:
“Con người chúng ta đang ở trên địa cầu 68 và
chúng ta phải tiến hóa lên đệ nhứt cầu, vì có tất cả 72 địa cầu trên thế giới;
còn tiến vào Tam Thiên (ba ngàn) Thế giới nữa; qua khỏi Tam Thiên Thế giới thì
mới đến Tứ Đại Bộ Châu; qua Tứ Đại Bộ Châu mới vào đặng Tam thập lục Thiên” (36
tầng Trời)”.
Chín tầng trời-đất: ám-chỉ cửu-khiếu (chín huyệt-đạo)
nằm dài từ trên đầu xuống tới xương-cùng. Đã thông được CỬU-KHIẾU từ xương-cùn
lên tới trên đầu thì phát-huệ.
CỬU KHIẾU 九 竅 là gì?
Khiếu: Cái lỗ. Thất khiếu là bảy cái lỗ trên mặt:
2 mắt, 2 tai, 2 lỗ mũi, và 1 miệng.
Còn Cửu khiếu là thất khiếu cộng thêm hai khiếu là
lỗ sinh dục và hậu môn, tức hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi, miệng, sinh thực khí
và hậu môn. Cửu khiếu ấy là 9 con ma giữ 9 lỗ khiếu, không cho khí Tiên Thiên
tiếp ứng với khí Hậu Thiên, thành thử con người phải chịu trầm luân mãi mãi.
Luyện sao cửu khiếu phát khai,
Thiên môn rộng mở Linh đài quy nguyên.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
9 khiếu còn được xem tương ưng với 9 luân xa
(chakras) của cơ thể người.
LUÂN XA (chakras) hay trung tâm lực là những điểm
giao tiếp mà tại đó năng lượng chảy từ một khí thể nầy đến một khí thể khác. Bất
kỳ ai có chút ít nhãn thông đều có thể dễ dàng thấy chúng trong thể dĩ thái,
trông chúng giống như những dòng xoáy năng lượng, bề mặt lõm vào giống như một
cái đĩa. Ở một người bình thường chúng trông giống như những vòng tròn nhỏ có
đường kính khoảng 5cm, và toả sáng. Năng lực thiêng liêng từ cõi cao đổ vào các
luân xa tạo ra các làn sóng thứ cấp chuyển động theo vòng tròn. Theo Đức Giám mục
C.W. Leadbeater, trong thể dĩ thái (phách, vía- etheric body) của con người có
7 luân xa chính, theo thứ tự từ trên đỉnh đầu xuống như sau:
1 . Luân xa đỉnh đầu (Crown chakra – Head center):
gồm 2 vòng, vòng bên trong có 12 cánh, và vòng bên ngoài 960 cánh.
2 . Luân xa trán (brow chakra hay AJNA center): gồm
96 cánh, chia thành hai nửa, mỗi một nửa 48 cánh.
3 . Luân xa cuống họng (throat chakra hay throat center): 16 cánh.
4 . Luân xa tim: nằm gần quả tim, có 12 cánh.
5 . Luân xa rốn
(navel chakra): 10 cánh.
6 . Luân xa lá lách (Spleen chakra): 6 cánh.
7 . Luân xa gốc
(Root chakra): 4 cánh.
Số cánh của mỗi luân xa đều có một ý nghĩa huyền
linh
Câu 9: Lòng sở vong gắng ghi đảo cáo.
ĐẢO CÁO 禱 告: Đảo là cầu được an lành.
Cáo là nói cho biết. Đảo cáo: Cầu xin với các Đấng Thiêng Liêng về
việc gì.
Câu 10: Nhờ Ơn trên bổ báo phước lành.
CÂU CHÚ THẦY: Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát
Ma Ha Tát.
南 無 高 臺 仙 翁 大 菩 薩 摩 訶 薩
NAM MÔ 南 無:
Từ tiếng Phạn Namah, nghĩa là Kính lễ, đảnh lễ: cúi đầu làm lễ. Tiếng Nam Mô
thường được dùng đặt trước hồng danh chư Phật, Bồ Tát, hay đặt trước câu của lời
nguyện.
CAO ĐÀI 高 臺: Một Đài rất cao ở Linh
Tiêu Điện, Ngọc Hư Cung, là nơi ngự của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế và là nơi chư
Tiên, Phật họp hội.
ĐẠI BỒ TÁT 大 菩 薩:
Một vị Bồ Tát lớn. Bồ Tát do từ Bodhisattva. Bồ Tát là bậc đã giác ngộ, nhưng
không an hưởng Niết Bàn, mà lo giúp người khác tỉnh thức. Bậc A La Hán (bậc Thánh)
là người mới đạt được tự giác, nhưng chưa giác tha, còn bậc Bồ Tát thì vừa tự
giác vừa giác tha, nhưng sự giác ngộ ấy chưa hoàn toàn. Chỉ có bậc Phật là người
vừa tự giác vừa giác tha viên mãn, nên Đức Phật được gọi là bậc Đại giác.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có dạy:
Các con coi bậc Chí Tôn như Thầy mà hạ mình đặng độ rỗi nhơn sanh là thế nào,
phải xưng là một vị Tiên Ông và Bồ Tát là hai phẩm chót của Tiên, Phật.(TNHT
1969,Q 1,Tr43,44)
MA HA TÁT 摩 訶 薩
do từ Mahasattva. Ma Ha là Đại, Tát tức là Bồ Tát. Nói cách khác Ma Ha Tát là vị Đại Bồ Tát là bậc phát Đại tâm Bồ Đề cứu độ cả chúng
sanh.
TIẾT 2. CAO ĐÀI LÀ GÌ? CAO ĐÀI LÀ TRUNG TÂM ĐIỂM TRONG NÃO NGƯỜI.
Theo bác sĩ Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ, trong đầu não
con người có trung tâm điểm, y học gọi là Não Thất Ba (3rd ventricle), kinh
sách gọi là Cao Đài,Thiên Tâm, Nê Huờn Cung, Cốc Thần, Huyền Quan Khiếu.
Lấy một điểm giữa trán và một điểm giữa đỉnh đầu;
từ hai điểm ấy, kéo hai đường ngang dọc A và B, thì giao điểm T ở ngay trung
tâm não bộ, cũng là trung tâm điểm của mỗi con người.
HÌNH NÃO THẤT BA & TUYẾN TÙNG.
TUYẾN TÙNG (PINEAL GLAND) được gọi là CON MẮT THỨ
BA, HUỆ NHÃN.
TUYẾN TÙNG hay CON MẮT
THỨ BA.
“Con mắt thứ ba” (third eye), đôi khi còn được nhắc
đến với những tên gọi khác như “giác quan thứ sáu”, “thể tùng quả” (pineal
gland) hoặc “tuyến tùng”. Tuyến tùng nằm sau não thất thứ ba ở đường giữa não
(giữa hai bán cầu đại não). Thể tùng quả của cơ thể con người nằm ở trung tâm của
bộ não, có kích thước chỉ bằng một hạt gạo và có hình dáng giống như quả của
cây thông (pinea). Ở người trưởng thành, kích thước của tuyến tùng khoảng 0,8
cm (0,3 inch) và nặng khoảng 0,1 gam (0,004 ounce). Tuyến tùng là giác quan thứ
sáu, ngoài 5 giác quan mà chúng ta đã biết (thính giác, thị giác, khướu giác, vị
giác & xúc giác).Thể tùng chứa mô võng mạc được cấu tạo bởi các tế bào cảm
quang hình que và hình nón, giống hệt như mắt người, nên người ta gọi nó là
“con mắt thứ ba”. Đạo gia xem Thể tùng quả là NÊ HOÀN CUNG, Hoàng Đình, Côn
Lôn, là nguyên thần, linh hồn của con người.
Mỗi người đều có một thể tùng quả và mọi người đều
có thể thông qua tu luyện mà khai mở con mắt thứ ba của bản thân. Tuy nhiên, Đạo
Pháp là tự nhiên, khi tu luyện tới một trình độ nhất định thì HUỆ NHÃN sẽ được
khai mở. Con mắt thứ ba, tổng quát, thường được cho là nằm ở giữa trán của
chúng ta. Con mắt này có những năng lực siêu nhiên, có thể biết trước được sự
việc tương lai hay nhìn xuyên thấu qua các chiều không gian khác nhau.
Con mắt thứ ba thực chất tồn tại trong không gian
siêu hình (metaphysical)
– tức không
gian cao hơn không gian 3 chiều quen thuộc với chúng ta. Đây cũng chính là lý
do tại sao chúng ta không thể nhìn thấy cũng như thực sự xác định được vị trí
chính xác của nó.Về phương diện tâm linh, con mắt bí ẩn này thường được chạm khắc
trên các bức tượng thần linh, tượng Phật. Nó đã được biết đến trong nhiều nền
văn hóa qua hàng ngàn năm rằng tuyến tùng là một điểm cốt lõi cho sự thức tỉnh
tâm linh.Trong truyền thống cổ đại, con người đều biết về tuyến này và họ đã sử
dụng nó như một sự mở ra cho các chiều kích tâm linh cao hơn- ở cấp độ đó, khoảng
cách về không gian và thời gian trở nên vô nghĩa. Chủ thể có thể nhìn thấy
tương lai, quá khứ và sẽ chuyển từ việc hoạt động dựa vào não ý thức (conscious
mind) sang siêu thức (superconscious). Đây là bước tiến sang các dạng tồn tại
cao hơn (Thần, Thánh, các sinh linh trong không gian nhiều chiều…).
René Descartes, một trong những triết gia lớn của
thế giới, gọi tuyến tùng là “the principal seat of the soul” (tạm dịch: tòa ngự
trung tâm của linh hồn).
Hình ảnh tượng
trưng cho tuyến tùng đã xuất hiện trong nhiều nền văn minh cổ đại như La Mã,
Mê-hi-cô, Ai Cập, Babylon, Hy Lạp. Ngay ở quảng trường Vatican của Công giáo
cũng trưng bày hình ảnh tuyến tùng, với bức tượng hình nón thông lớn.
TUYẾN TÙNG trong PHẬT GIÁO, ẤN GIÁO, THIÊN CHÚA GIÁO.
BA ĐAN ĐIỀN (Dantians): THƯỢNG, TRUNG, HẠ.
BA QUAN (Gate): VĨ LƯ, NGỌC CHẨM, HUYỀN QUAN.
LUÂN XA 6 (AJNA CHAKRA)=HUYỀN QUANG KHIẾU.
Lưu ý: sau khi đọc xong mỗi bài Kinh, người tín đồ
sẽ lạy ba lạy, mỗi lạy cúi sát, trán đụng dất 3-4 lần. Đây có phải là cách thức
kích thích các luân xa từ LX 1 ĐẾN LX 7 khởi động mà các Đấng không nói ra, chỉ
khuyên chúng ta siêng năng cúng kiếng?
Đối với người học đạo, phương pháp lập hạnh và phụng
sự là phương pháp an toàn và tốt nhất để khai mở luân xa.
TIẾT 3. NGŨ PHẦN HƯƠNG.
Con đường đi đến với Đạo thì quan trọng nhất là ở
nơi lòng thành-tín không do-dự. Mượn nhang khói làm trung-gian chuyên-chở lòng
thành-tín ấy, tức cái cảm ở nơi mình, hầu có được cái ứng mau lẹ của các Đấng
Thiêng-Liêng đáp lại những lời cầu-nguyện của mình. Đối với người tu, sự đốt
hương mang một ý nghĩa sâu sắc. Đốt hương hàm ý đốt lên mùi thơm của pháp vô vi, có tác dụng đánh bạt các
mùi ô uế, trược khí của tội chướng và ác nghiệp trong tâm thức ta. Mỗi lần cúng
đốt 5 cây nhang tượng trưng cho Ngũ Phần Hương:
1. GIỚI hương: Đó là khi con người biết giữ giới cấm,
làm lành, lánh dữ. Tâm biết từ bi, bác ái, không tham lam, chẳng ganh tị, sân
si. Nguyện cầu giữ gìn giới luật, biết kính người trên, nghĩ kẻ dưới, thương
xót những hạng cơ-bần
2. ĐỊNH hương: giữ tâm trí an định, trông thấy các
cảnh-tượng lành dữ mà tâm mình chẳng loạn động, không nghỉ ngợi lung tung. Tâm
trí có tĩnh lặng mới phát triển trí tuệ.
3. TUỆ hay HUỆ hương: hằng lấy trí-tuệ xét soi tự-tánh,
tuy tu các nghiệp lành mà tâm chẳng chấp trước, ; năng đọc kinh sách để hiểu biết
chân lý. Phước, Huệ song tu. Mùi thơm của
trí tuệ, là một năng lực bén sáng, có khả năng diệt trừ mọi chướng ma, phiền
não.
4. GIẢI THOÁT hương: tâm an nhiên tự tại, chẳng
nghĩ quá khứ, chẳng lo tương lai, chẳng lo còn mất nơi cõi tạm này. Giữ đức tin
kiên cố nơi Đức Chí Tôn là mùi hương của giải thoát.
5. TRI KIẾN hương: biết linh hồn bất tiêu, bất diệt;
biết “Vạn vật đồng nhất thể”. Mùi thơm của giải thoát tri kiến là trí tuệ quang minh, thông suốt lý Đạo, biết
phân biệt chánh tà; không cố chấp hay cuồng tín.
Trong đại vũ-trụ thì NGƯƠN-THẦN và NGUƠN-KHÍ nương
nhau.Trong tiểu vũ-trụ, THẦN và KHÍ (CHƠN LINH và CHƠN THẦN) phải nương theo
nhau mà luyện đạo.
THẦN & KHÍ là hai trong tam bửu của con người:
Tinh, Khí, Thần.
KHÍ 氣 (life-energy) là vật chất
cực nhỏ, hoạt động rất mạnh và liên tục trong cơ thể. Phổi (Lung) là cơ quan chủ
khí, Thận (Kidney) là cơ quan chứa khí.
Trong cơ thể con người, Khí (life-energy) xuất
phát từ Phổi (Lung) và thu nạp về Thận (Kidney). Khí (life-energy) có vai trò
duy trì và điều tiết sự chuyển hóa, trao đổi chất trong cơ thể. Dương khí giống
như không trung có được ánh sáng từ mặt trời. Sinh khí là chất để bảo tồn sự sống, là nguồn sinh lực của con người. Nguyên khí
này nếu ở ngoài là thanh khí, thuộc khí Tiên Thiên từ khí hư vô của Trời đất.
Qua sự hô hấp, KHÍ đi vào phổi để lưu thông huyết mạch. Hễ khí mạnh thì thân thể
cường tráng, khí yếu thì thân thể suy nhược. Khí là CHƠN THẦN của con người. THẦN 神 Thần là Thái cực, chủ đạo
việc phối hợp khí hóa âm dương. Thần biểu hiện sức sống. Thần còn thì sống, Thần
hết thì chết. Thần sung mãn thì ngươì khỏe mạnh, thần suy thì người yếu đuối.
THẦN còn là phần chủ tể của con người, là điểm linh của Trời phú cho mà Đạo Cao
Đài gọi là Tiểu Linh Quang, còn Phật giáo gọi là Chơn như, Phật tánh.
Ngày ăn hai bữa nuôi tinh huyết,
Đêm ngủ ba canh dưỡng Khí, Thần. (Thơ Hộ Pháp).
Quan hệ giữa Tinh, Khí, Thần trong mỗi cơ thể là mấu
chốt chủ yếu để duy trì sự sống. Cái mạng con người bắt đầu từ TINH (thể xác),
sống được là nhờ KHÍ, mà chủ sinh mạng lại là THẦN. Để cho pháp luân thường
chuyển thì Khí sinh Tinh, Tinh dưỡng Khí, Khí dưỡng Thần, rồi Thần lại hoá Khí.
Sự thăng trầm của Tinh, Khí, Thần quan hệ đến sự mất còn của sự sống. Vì thế, cổ
nhân mới gọi Tinh, Khí, Thần là tam bửu (ba món báu ).
NGUƠN KHÍ= NGUYÊN KHÍ 元 氣 = HỖN NGUƠN KHÍ = TIÊN THIÊN KHÍ.
- Nguyên: đầu tiên. Khí: Chất khí. Nguyên khí là
khí ban đầu để tạo hoá ra Càn khôn vạn vật. Trong Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống,
Đức Hộ Pháp giảng như sau:
Nhờ sanh sanh tử tử thâu đoạt Nguơn Khí tạo đặng
Pháp Thân của mình với cả muôn muôn triệu triệu kiếp sanh của chúng ta, đặng đoạt
cả huyền vi bí mật quyền phép tạo đoan, cho nên lúc đoạt được Pháp Thân rồi, tức
nhiên đoạt được Phật Vị vậy.
-Điều hữu dụng của sự cúng tế là lòng thành, cảm động
tình ái lẫy lừng, làm cho Nguơn khí của Chơn thần trở nên thơm tho đẹp đẽ...(Thượng
Phẩm dạy).
THẤT PHÁCH LÀ GÌ?
Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: “Các bạn có biết
Phật Mẫu là ai chăng? Ngài dùng bảy nguơn khí tạo chơn thần ta, tức nhiên tạo
Phách ta. Nhà Phật gọi là Thất phách, kỳ thật khí phách ấy làm Chơn thần ta, tức
là Nhị xác thân chúng ta. Khi chúng ta bỏ xác trần, xác thân thiêng liêng ấy vẫn
tồn tại”.
Thất phách còn chỉ 7 luân xa của cơ thể con người.
Đức Cao Thượng Phẩm nói: "Chơn khí tiết ra bởi
7 oan nghiệt mà người ta gọi là Thất phách.
Phách cực âm là nơi xương cụt (VĨ LƯ) =LX1,
Phách cực dương là nơi NÊ HOÀN CUNG= LX 7,
Phách trung ương là MỆNH MÔN (thận)=LX3,
Nếu để cho 1 trong 7 phách bị kích động, thì Hỏa
Tam muội sẽ đốt cháy nơi đó, tức nhiên có điều nguy hiểm ngay, có khi hại đến
tánh mạng nữa." Do đó, nếu không có Chân sư chỉ dạy, tuyệt đối không tự ý
học khai mở Luân xa. Tẩu hỏa nhập ma là do đó.
7 PHÁCH= 7 LUÂN XA TẠO CHƠN THẦN = NHỊ XÁC THÂN.
NGŨ KHÍ TRIỀU NGUƠN 五 氣 朝 原.
Con người muốn quy nguyên phản bản, thì tất cả phải
quy hướng về Trời, về cái Một. Nên muốn đắc đạo phải luyện sao cho ngũ khí triều
nguyên triều nguyên tức là quy nguyên, hay hiệp nhứt. Luyện ngũ khí tức là luyện
nguyên khí của ngũ hành làm cho nó trụ lại ổn định, không bị thất thoát hư hao.
Sách Tính Mệnh Khuê Chỉ viết:
1 - Thân bất động thì Tinh ổn định, và Thuỷ triều
nguyên;
2 - Tâm bất động thì Khí ổn định, và Hoả triều
nguyên;
3 - Chân tính tĩnh lặng thì tâm hồn ổn định và Mộc
triều nguyên.
4 - Dục vọng không còn thì phách ổn định, và Kim
triều nguyên;
5 - Bốn đại bình yên hài hoà thì ý niệm sẽ ổn định,
và Thổ triều nguyên.
Đó là ngũ khí triều nguyên, đều quy tụ tại đỉnh đầu.
Tóm lại ngũ khí triều nguyên tức là làm cho Tinh,
Thần, Hồn, Phách và Ý, tất cả phải hợp lại thành một.
Ngũ khí triều nguơn linh giác hiện,
Tam huê tụ đỉnh huệ năng khai. (Thơ Danh Nhân).
TAM HUÊ TỤ ĐỈNH 三 花 聚 頂.
Muốn Tam huê tụ đỉnh (Tam hoa tụ đỉnh ), phải luyện
Tinh hoá Khí, luyện Khí hoá Thần, luyện Thần hườn Hư. Khi luyện được Thần huờn
hư, thì lúc ấy Tam hoa là Tinh, Khí, Thần hội tụ nơi Thượng điền, cũng như cây
cỏ nở hoa sắp kết trái mà tinh hoa tụ nơi đỉnh.
Nhâm mạch (trước ngực) và Đốc mạch (phía sau lưng)
cả hai cùng mang lên trên đốc giọng, chỗ cong lưỡi lên lưỡi gà, hòa nhau chảy
ra thành CAM LỒ (nước miếng); nếu nuốt xuống vào ruột trong 10 tháng thành thai
nhi (Thập ngoạt hoài thai). Nuôi thánh thai đủ 3.000 công phu thì thai nhi
thành KIM THÂN, tự do bay nhảy trong vũ trụ. Đức Chí Tôn dạy:
Phải có một thân phàm tinh khiết mới xuất Chơn Thần
tinh khiết. Nếu như các con còn ăn mặn luyện đạo rủi có ấn chứng thì làm sao mà
giải tán cho đặng ?
Như rủi bị hườn, thì đến khi đắc đạo, cái trược
khí ấy vẫn còn, mà trược khí thì lại là vật chất tiếp điển (bon conducteur
d’électricité) chưa ra khỏi lằn không khí đã bị sét đánh tiêu diệt. Còn như biết
khôn thì ẩn núp tại thế mà làm một bậc “Nhân Tiên” thì kiếp đọa trần cũng còn
chưa mãn.
Vì vậy, Thầy buộc các con phải trường trai mới đặng
luyện đạo."
Với Thánh giáo này, ngay từ buổi mới Khai Đạo, Thầy
cũng đã dạy truyền pháp cho kẻ nào trai giới đặng 10 ngày trở lên và muốn luyện
đạo phải trường trai mới đặng Luyện đạo là luyện tam bửu Tinh Khí Thần để tạo một
Nhị xác thân. Xác thân thứ hai thiêng liêng vô hình (périsprit) ngoài xác thân
nhục thể hữu hình của chúng ta Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, trang 173, Thầy dạy
về Giới tửu (18.1.1927) Bính Dần, Thầy nhắc lại về Nhị Xác Thân như sau:
"Thầy nói cái Chơn Thần là Nhị xác thân các
con, là khí chất (le sperme). Nó bao bọc thân thể các con như khuôn bọc vậy,
nơi trung tim của nó là óc, nơi cửa xuất nhập của nó là mỏ ác, gọi tiếng chữ là
VI HỘ; nơi ấy Hộ Pháp hằng đứng mà gìn giữ chơn linh các con. Khi luyện thành đạo,
đặng hiệp một với KHÍ, rồi mới đưa thấu đến Chơn Thần, hiệp một mà siêu phàm nhập
thánh".
Thầy cắt nghĩa hai chữ Tu Luyện như sau:
"Chữ TU là gì? Tu là bồi bổ tinh khí thần cho
đầy đủ, đức tánh cho hoàn toàn, bỏ nhơn dục tầm đường Thiên Lý thuận mạng, giữ
thanh tịnh ôn hòa, chỗ nào sứt mẻ hư hao thì tô bồi cho đầy đủ.
Chữ LUYỆN là gì? Luyện là trau giồi cho sáng suốt
hoàn toàn, giũa mài, rèn đúc cho trơn tru khéo léo. Tu mà không luyện chẳng
khác chi một cục sắt không rèn làm sao thành một món khí giới? Luyện là RÈN,
thì chẳng khác nào một cục sắt đó còn đương vô dụng; luyện nó phải nướng cho nó
cháy, rồi đập giũa, cạo, gọt, rèn, đúc mới thành cái khí cụ. Người tu cũng thế.
Thầy hằng nói: Thầy là các con, các con tức là Thầy. Có Thầy mới có các con, mà
có các con rồi mới có chư Tiên, Phật, Thánh, Thần..
Muốn tiến lên phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật
chúng ta phải thực hành lời Đức Phạm Hộ Pháp dạy về Tam Lập: lập Công, lập đức,
lập Ngôn. Ngoài ra, Ngài còn dạy PHƯƠNG LUYỆN KỶ, để chìa khóa mở cửa Bạch Ngọc
Kinh trong đó.
Các sách luyện đơn Ấn Độ gọi Luân Xa thứ 7 trên đỉnh
đầu là Sahasrara, là hoa sen nghìn cánh. Đó chính là Thiên môn là nơi mà Thần
người với Thần Trời hợp nhất. Sahasrara chính là NÊ HOÀN CUNG (VI HỘ, vị trí ở
mỏ ác người).
Sahasrara
TIẾT 4. TỌA TỊNH & PHÉP THỞ BỤNG.
Ngay từ buổi đầu khai Đạo, Đức Chí Tôn đã dạy các
môn đệ cần phải tịnh luyện:
Thành tâm niệm Phật .
Tịnh, tinh, tịnh, tịnh, tịnh.
Tịnh là vô nhứt vật,
Thành tâm hành đạo (Pháp) (Đàn đêm 14-1-1926)
Tại tư gia, muốn cho lòng thêm thanh-tịnh phải
công-phu ngồi tham-thiền. Mà tham-thiền thì nên ngồi dưới đất để âm-dương
tương-hội. Nhập định là làm cho tâm thần yên ổn, không nghĩ suy điều chi, chỉ
nuôi dưỡng duy nhất tư tưởng thánh thiện trọn lành. Người tín đồ ngồi xếp bằng
như ngồi cúng ở Đền Thánh, lấy dấu xong bắt đầu niệm các bài kinh, nghĩa là đọc
thầm bằng tư tưởng mà không phát ra thành tiếng .
Sau thời cúng tại tư gia, chúng ta có thể tọa tịnh
và thở bụng, niệm danh hiệu Đức Tôn Sư Phạm Hộ Pháp vì Ngài là người giữ nhiệm
vụ truyền PHÁP trong tôn giáo Cao Đài. Tùy theo công đức và duyên nghiệp của mỗi
người mà sự tu luyện sẽ tiến nhanh hay chậm.
“Đạo hư vô, Sư hư vô...”
CÁCH THỞ BỤNG.
Kiếm hiệp hay nói “đưa hơi xuống huyệt ĐAN ĐIỀN” là sao?
- Đó chính
là cách thở bụng. Khi hít vào, đẩy cơ hoành xuống càng sâu càng tốt, xuống tận
huyệt “đan điền”. Huyệt ĐAN ĐIỀN nằm dưới rún ba lóng tay, khoảng 3cm. Đan là
thuốc, điền là ruộng. Đan điền là ruộng thuốc. Người xưa coi thở bụng là phương
pháp luyện công tốt nhất, được sử dụng trong võ thuật và phép tu tiên để trường
sinh bất lão. Thực ra cơ hoành chỉ di chuyển được khoảng 7 cm thôi, chưa quá
rún, cũng đã đưa vào hơn 1,5 lít không khí rồi.
KẾT LUẬN PHẦN BÍ PHÁP BÀI NIỆM HƯƠNG:
Bài kinh NIỆM HƯƠNG là phương-thức khởi đầu chỉ
cho cách tu-thân luyện-đạo.Đọc bài Niệm Hương là dùng âm thinh đưa làn tư
tưởng theo khói hương lan tỏa mười phương để mong cầu sự cảm ứng của
Trời Phật. Trong khi thực hành nghi lễ cúng kiếng như thế, người tín
đồ cũng biểu lộ được ít nhiều lòng thành kính tin tưởng của mình
theo lý “Thiên Nhơn hiệp nhứt.” Tuy nhiên, muốn cho việc Niệm Hương, dâng
hương đạt kết quả tốt, người tu cũng phải có ý thức giác ngộ, phải
biết lời lẽ trong kinh dạy việc gì, để rồi vừa hành Thế Đạo vừa
công phu tu luyện sửa đổi tánh tình, thức tỉnh tâm linh. Nếu cứ đốt
hương, Niệm Hương, với ý tưởng cầu cạnh sự phù hộ của Trời Phật, mơ
tưởng thành vị này vị nọ mà không chịu sửa đổi tánh hư tật xấu, chẳng
biết khai tâm mở trí học hỏi chân lý, thì chỉ là ảo vọng; việc cúng
kiếng tôn sùng Trời Phật cũng chỉ là việc làm vô nghĩa. Người tu
hành ở trong hang động núi rừng thâm sâu, không có bàn thờ, lư hương,
không thể áp dụng nghi thức hữu hình, thì phải dùng cái “Tâm Hương”
để mà thông công với điển giới vô vi. Theo cách này, người tu hành
chỉ tập trung tư tưởng mật niệm đưa tinh thần lên mà cầu nguyện.
Tại sao tựa đề bài kinh này là Niệm-Hương?
Niệm là nghĩ tới, nhớ tới. Hương là hơi thở thanh
sạch.
Vậy, Niệm Hương là chăm-chú tập-trung mọi ý-nghĩ
vào hơi-thở, theo dõi con đường nó vận-chuyển. Đó là phương-pháp kết-hợp Thần
và Khí. THẦN là ý-nghĩ. KHÍ là hơi-thở.
Trong Phương luyện kỷ, Đức Phạm Hộ Pháp đã dạy:
- Ẩm thực tinh khiết.
- Tư tưởng tinh khiết.
- Hiếu hạnh với Chí Tôn và Phật mẫu.
Đó là chìa khóa mở cửa BẠCH NGỌC KINH.
ẨM THỰC TINH KHIẾT: ăn chay để tránh trược khí của
thú vật.
TƯ TƯỞNG TINH KHIẾT: tâm thức được nâng cao, tránh
vẩn đục quay cuồng theo thất tình lục dục. Giữ tư tưởng không nghĩ điều càn quấy
là việc rất khó khăn, có thể nói là khó khăn nhất trong sự tu luyện. Làm thế
nào để định trí là điều mỗi người phải suy gẫm để tìm ra phương cách.
Trong Tòa
Thánh Tây Ninh, nơi Hiệp Thiên Đài có tượng Ngài Cao Thượng Phẩm, tượng Đức Hộ
Pháp, tượng Đức Thượng Sanh đứng trên ngai. Chữ KHÍ sau lưng Đức Hộ Pháp
và Thất Đầu Xà (ngai hình rắn 7 đầu), là
hướng dẫn cho pháp môn tịnh luyện xuất Chơn thần của Cao Đài.
Thất đầu xà là con rắn thần có 7 cái đầu. Rắn thần
này được đắp nổi, đỡ ba cái Cẩm đôn của ba vị: Hộ Pháp (giữa) Thượng Sanh (bên
trái của Hộ Pháp), Thượng phẩm (bên phải). Bảy cái đầu này tượng trưng Thất
tình của con người: Hỷ, Ái, Lạc, Dục, Ai, Ố, Nộ. Thất tình được ví như 7 cái đầu
rắn độc, đưa con người sa vào những ham muốn thấp hèn tội lỗi.
Ba đầu rắn ngẩng lên sau lưng Hộ Pháp tượng là: HỈ,
ÁI, LẠC là ba mối lành. Bốn đầu quay xuống Ố, NỘ, AI, DỤC là bốn mối hại, xấu. Người tu cần phải lập chí
cao thượng, chế ngự cho được Thất tình, cương quyết làm chủ chúng nó, phải biết giữ cho tâm thanh tịnh thì mới mong
thoát khỏi luân hồi, sinh tử.
Đức Chí Tôn dạy người tu phải chế ngự thất tình mới
mong đắc đạo.
Phần giữa con rắn quấn vào đôn của Đức Thượng Phẩm,
phần đuôi quấn vào đôn của Đức Thượng Sanh. Phía sau Đức Hộ Pháp có tạc hình chữ
“KHÍ” thật to, tượng trưng cho Khí Sanh Quang, nguồn cội của CƠ PHÁP (Cơ của Đức
Phật Mẫu) sanh hoá ra Càn Khôn Vũ Trụ. Hai bên chữ KHÍ có hai câu liễn:
PHẠM GIÁO
TUỲ NGUƠN, CỨU THẾ ĐỘ NHƠN HÀNH CHÁNH PHÁP.
MÔN QUYỀN ĐỊNH HỘI, TRỪ TÀ DIỆT MỊ HỘ CHƠN TRUYỀN.
Ý nghĩa: Phật
dạy tuỳ thời kỳ mà cứu độ người đời, thi hành Chơn pháp.
Quyền lực của Phật đã định thời kỳ trừ diệt tà mị bảo hộ chơn truyền.
(Phạm là Phật, ở đây Phật chỉ Đức Chí Tôn hay Đức
Phật Mẫu).
Nói tóm lại, trong kinh sách có nhiều bí
ẩn, tùy trình độ tiến hóa tâm linh mà người tu lãnh hội cao hay thấp
đó thôi.
HIẾU HẠNH VỚI CHÍ TÔN VÀ PHẬT MẪU như thế nào?.
Làm thế nào
để tỏ lòng hiếu hạnh với Đức ĐẠI TỪ PHỤ và ĐẠI TỪ MẪU? Có nhiều cách biểu hiện
lòng hiếu thảo, nhưng quan trọng nhất có hai điều:
-Nghe và làm theo lời giáo huấn của Cha Mẹ.
- Tưởng nghĩ đến Cha Mẹ thường xuyên, phổ độ chúng
sanh, làm cho ĐẠI ĐẠO được phổ truyền khắp nơi để anh em chúng ta bớt sa vào
cõi Âm quang tối tăm.
Nếu làm được vậy, ngày về bái mạng NGỌC HƯ CUNG sẽ rất
vui, không sợ hãi vì Đức Phạm Hộ Pháp đã dạy rõ: “Đó là chìa khóa mở cửa BẠCH
NGỌC KINH”.
* Hải Sơn.