Dịch Lý Cao Đài đã được minh định qua hai yếu tố quan trọng:
- Kinh Dịch là bí pháp cổ truyền của Đạo Cao Đài (Bài của Đức Hộ Pháp).
- Lý Dịch trong Đạo Cao Đài (Lời giảng của Đức Chí Tôn) Đạo Cao Đài là một kho Dịch Lý vô cùng tận, được minh giải bằng những môn
khoa học như hình học, toán học, vật lý học… để khơi bày lý âm dương của Đạo học.Thế nào là
Tam tài, Tứ tượng, Bát quái, Ngũ hành cùng sự biến hóa của Dịch tác dụng và chi phối trên các
phương diện của lý Đạo trong các hình thức: nghi lễ, văn thi, cả đến Tân Luật, Pháp Chánh Truyền.
Tóm lại Đạo là Dịch hay Dịch là Đạo.
Để khẳng định rằng Đạo Cao Đài xử dụng đến bốn (4) Bát quái, tức nhiên
ngoài hai (2) Bát quái của các tiền Thánh là Phục Hi, Văn Vương ra còn có:
Thế Đạo:
- Tiên thiên Bát quái là Bí pháp của Thế Đạo;
- Hậu thiên Bát quái là Thể pháp của Thế Đạo
Thiên-Đạo:
- Bát quái Đồ Thiên là Thể pháp của Thiên Đạo
- Bát quái Hư Vô là Bí pháp của Thiên Đạo
Đức Hộ Pháp nói “lấy cái thực học Âu Mỹ để so sánh với thực học Á đông cân
nhắc nhau thì phần nhiều cái học Á đông bị lu mờ chỉ vì cách trình bày, luận lý không rõ ràng,
còn về phần tinh thần thì bao trùm được khắp vũ trụ như: Thiên văn, Địa lý, Dịch lý mà ông cha ta
vẫn cho là những môn học khó khăn, huyền diệu. Nhưng nếu ta lấy cái học thuyết hiện tại của Âu Mỹ
hoà với Dịch Lý để giải cho rõ, ta cảm thấy cái lý học Á đông đã đến chỗ tuyệt đối huy hoàng.
Chúng ta dòng dõi con Rồng cháu Tiên trên một dãy đất ngàn năm văn hóa đã hấp
thụ được hai cái văn hóa Đông Tây không lẽ lại để cho cái triết học Đông phương một ngày
càng tàn tạ, thật là “túi mình có ngọc báu mà không biết lại ngửa tay đi xin người từng hột gạo”.
(ĐHP)
Muốn hiểu thêm chi tiết về Kinh Dịch và Lý Dịch trong Đạo Cao Đài, xin đọc
và nghiên cứu quyển sách “Dich Lý Cao Đài” của soạn giả Nguyên Thủy.
II. Ngôi Sao 6 Cánh của Vua David, Israel
Ngôi sao 6 cánh là một trong những biểu tượng cổ xưa nhất của nhân loại, thể
hiện cho sự cân bằng của vũ trụ. Đối với người Do Thái, đó là biểu tượng thiêng
liêng nhất, mang đến sức mạnh và sự che chở từ chính Thượng Đế.
Ngôi sao David (Hình số 1) hay lá chắn David được công nhận rộng rãi là biểu
tượng cho người Do Thái và đạo Do Thái. Cái tên này được đặt theo tên vua
David, được biết đến sớm nhất vào thời kỳ Trung cổ.
Ngôi sao David có hình dạng của một ngôi sao 6 cánh với 2 Tam giác đều lồng
vào nhau.
Cùng với sự thành lập của nước Israel năm 1948, ngôi sao David trên lá quốc
kỳ của Israel cũng đã trở thành biểu tượng của đất nước này.
Hình số 1: Ngôi sao David
Ngôi sao David hay lá chắn David được công nhận rộng rãi là biểu tượng cho
người Do Thái và đạo Do Thái. Cái tên này được đặt theo tên vua David, được biết
đến sớm nhất vào thời kỳ Trung cổ.
Ngôi sao David có hình dạng của một ngôi sao 6 cánh với 2 Tam giác đều lồng
vào nhau. Cùng với sự thành lập của nước Israel năm 1948, ngôi sao David trên
lá quốc kỳ của Israel cũng đã trở thành biểu tượng của đất nước này.
Ngôi sao 6 cánh là một biểu tượng chung của nhân loại và được cộng đồng người
Do Thái tiếp nhận và phát triển. Những ghi chép sớm nhất của người Do Thái đề cập
tới biểu tượng này là sách Eshkol Ha-Kofer được viết bởi nhà thuật ký Judah
Hadassi, vào giữa thế kỷ 12 SCN (sau Công Nguyên):
“7 cái tên của những thiên thần có trước Mezuzah (những luật lệ của đạo Do
Thái thường được khắc trên trụ nhà của những người theo đạo): Michael, Gabriel,
v.v… Tetragrammaton bảo vệ ngươi!
Và theo đó biểu tượng này, được gọi là “Tấm khiên David” (hay lá chắn
David), được thay thế bên cạnh tên của mỗi thiên thần”.
Sau đó ngôi sao David bắt đầu xuất hiện trên những tấm bùa chú trong các
văn tự cổ của cộng đồng người Do Thái ở Prague (thủ đô Cộng Hòa Czech ngày nay)
thời kỳ cuối Trung cổ. Từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 16 ngôi sao này đã có ở Trung
Âu, nơi Tấm khiên David được dùng kết hợp với Dấu triện của Solomon trên các lá
cờ của dân Do Thái. Đến năm 1897, nó đã được dùng làm biểu tượng của đạo Do
Thái.
Thật ra, ngôi sao David có thể có nguồn gốc còn cổ xưa hơn cả đạo Do thái.Một
ngôi sao 6 cánh được biết đến như một biểu tượng nguyên mẫu của sự hợp nhất thần
thánh của các nguồn năng lượng đối lập, cũng như thuyết ‘Âm - Dương’ của nền
văn hóa phương Đông. Được tạo thành bởi sự đan chéo của 2 Tam giác “Nước” và “Lửa”
(Water and Fire); sự mạnh mẽ của đàn ông (male) và dịu dàng của phụ nữ
(Female), biểu tượng này đại diện cho sự kết hợp hoàn hảo giữa giống đực và giống
cái (xem Hình số 2).
“Sự kết hợp thần thánh” là nguồn gốc mọi sự sống trên hành tinh này. Ngôi
sao 6 cánh với sự kết hợp giữa 2 Tam giác đều cũng là biểu hiện cho sự “cân bằng
và trọn vẹn”.
Hình số 2: Biểu Tượng Tam Giác Đối Lập.
Thông qua hình ảnh một ngôi sao 6 cánh, người ta nhìn thấy biểu tượng của
vũ trụ, đó là hình ảnh của Thiên Đường và sự phản chiếu ngược lại là Mặt Đất,
là đức tin Thần Thánh được phản ánh qua sáng thế và là mối liên kết giữa thế giới
hữu hình và vô vi, giữa tinh thần và vật chất. Nhiều nghiên cứu cho thấy ngôi
sao 6 cánh được sử dụng trong nhiều tôn giáo khác nhau và ý nghĩa rõ ràng nhất của
nó là có liên quan tới những phép thuật kỳ bí dùng để bảo vệ con người tránh khỏi
những thế lực “tà ám”.
III. Hai quẻ Âm Dương tạo thành một hình Ngôi Sao 6 Cánh Đều Đạo Cao Đài là
một kho Dịch Lý vô cùng tận, được minh giải bằng những môn khoa học rỏ ràng.
Dịch là biến hóa không ngừng, cho nên lý tam Âm, tam Dương sẽ cho ta một
phương thức mới hiểu thêm về vấn đề.
Hình số 3: Hai Tam Giác tam Âm tam Dương: Âm Dương Hiệp Nhất.
Quẻ Càn có ba hào dương ☰ nếu lấy ba đoạn thẳng này xếp
thành một hình Tam giác đều, đỉnh quay lên: có ba cạnh bằng nhau và ba góc bằng
nhau, quẻ Khôn ☷ kết hợp bằng 3 nét đứt, nếu đặt ngược lại cũng có được một tam giác đều nữa,
đỉnh sẽ quay xuống dưới, hai hình Tam giác gát chồng lên nhau sẽ tạo thành ngôi
sao sáu (6) cánh đều (Hình số 3: Hai Tam Giác tam Âm tam Dương: Âm Dương Hiệp
Nhất).
Như vậy ta có được hình Ngôi Sao Sáu (6) Cánh đều. Cả hai Tam giác này đều
nội tiếp trong vòng tròn. Tâm 0 của vòng tròn chính là Tâm của Tam giác là nơi
hiệp các giao điểm của ba đường phân giác, cũng là trung đoạn hay trung tuyến của
các Tam giác trên. Đây chính là tại “ngã ba đường” chờ Thầy! Có nghĩa là trên
đường Đạo nếu không biết hướng đi tới thì hãy đứng ở ngã ba chờ Thầy chỉ lối.“Ngả ba Đường” chính là đây!
Từ một quẻ Càn hay quẻ một quẻ Khôn đã làm nên một Tam giác đều, ấy là một
sanh ba, mà ba cũng là một, đó cũng là lý: một sanh ba, ba sanh vạn-vật, thuộc
về cơ quan Chưởng Quản. Rồi đến hai hình Tam giác gát chồng lên nhau là chỉ Âm
Dương Hiệp Nhứt.
Quyền Chí linh đối phẩm với quyền Vạn linh. Chí linh là cơ qui nhứt, Vạn
linh là cơ tấn hóa; nên Chí linh đầu nhọn quay lên, mà Vạn linh đầu nhọn quay về
phía dưới.Chí linh và Vạn linh vốn đồng quyền nhau.Đạo chủ trương trời người đồng
trị: Người trị xác, Trời trị hồn.Bấy giờ vòng tròn chính là Càn Khôn Vũ Trụ,
Tâm 0 là chỉ một quyền uy tối thượng là Hộ Pháp Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài.
IV. Huy Hiệu của Đức Hộ Pháp Ngôi Sao Sáu Cánh.
Hình số 4: Đức Hộ Pháp Đứng Trên Ngai Bắt Ấn Thượng Ngươn.
Do đó, Đức Hộ Pháp khi còn sanh tiền Ngài có cho làm một huy hiệu hình sao
sáu (6) cánh sơn màu vàng, giữa có ba sọc đỏ, chính giữa ngôi sao có ảnh Đức
Ngài đầu đội mão trắng, hình bán diện, phía trên bức hình có 4 chữ đặt theo
hình vòng cung “Đảng Phái Thống Nhứt” (ĐPTN), phía dưới bức hình có 5 chữ cũng
đặt theo hình vòng cung nghịch lại: “Giáo chủ Phạm Công Tắc” (GCPCT).
Xin xem Hình số 5: Huy Hiệu Đức Hộ Pháp “sao sáu (6) cánh”bên dưới.
Chung quanh các cánh ngôi sao đều có đặt vào đó một chữ Nho (Hán), nghịch
chiều với kim đồng hồ, khởi ở cánh sao trên, phía bên phải (nhìn đối diện), là
các chữ:
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ 大道三期普渡
- Chữ Đại 大 (3 nét) đặt ở cánh bên mặt B’)
- Chữ Đạo 道 (12 nét) đặt ở đỉnh, tức là đi nghịch chiều
kim đồng hồ (A)
- Chữ Tam 三(3
nét) đặt ở cánh trái, tức là đối xứng nhau qua chữ Đạo ở giữa (C’)
- Chữ Kỳ 期 (12 nét),
- Chữ Phổ 普
(12 nét),
- Chữ Độ 渡 (12 nét) tiếp tục xếp
trên ba cánh còn lại (các đỉnh B, A’ và C).
Xin xem Hình số 3: Hai Tam Giác tam Âm tam Dương:
Âm Dương Hiệp Nhất, để biết rỏ các vị trí A, B, C, A’, B’ and C’ của hai hình
Tam giác đều.
Hình số 5: Huy Hiệu Của Đức Hộ Pháp: Đảng Phái Thống
Nhất (ĐPTN). Giáo Chủ Phạm Công Tắc (GCPCT).
Ý nghĩa hình sao sáu cánh là nói lên lý tam Âm tam
Dương tạo thành Càn Khôn Vũ Trụ. Sáu chữ “Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ” là danh hiệu của
nền Tân Tôn giáo này mà Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế (Đức Chí Tôn) làm Chúa Tể.
- Màu vàng là nói lên nền Đại Đạo là Phật giáo chấn
hưng. Màu vàng chỉ giống da vàng, Huỳnh chủng, lý Ngũ hành thuộc Thổ, nền Đại Đạo
phải có một triết lý siêu tuyệt để dẫn đạo tinh thần củat oàn nhân loại trên mặt
địa cầu này, đó là “Thiên khai Huỳnh Đạo Ngũ Chi Tam Giáo Hội Long Hoa” như Đức
Chí Tôn đã chọn:
“Một nước nhỏ nhoi trong Vạn quốc,
“Ngày sau làm Chủ mới là kỳ.”
- Ba sọc đỏ là Tam giáo qui nguyên (Phật, Tiên,
Thánh), nếu nhìn theo nghĩa hẹp là Nam, Trung,B ắc của Việt Nam hòa hiệp, trong
ý nghĩa giòng giống Rồng Tiên “da vàng máu đỏ”. Ứng hiệp vớic âu theo Thánh ý của
Chí Tôn là:
Nam Bắc cùng rồi ra ngoại quốc.
Chủ quyền Chơn đạo một mình TA Nền Chơn đạo chính
là tinh thần Tam Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt đó vậy!
- Ảnh bán diện của Đức Hộ Pháp là chứng tỏ qưyền
uy tối thượng của Ngài là “thay trời tạo thế” (Thế Thiên Hành Đạo) nhưng chỉ có
nửa quyền mà thôi, bởi Ngài chỉ là Giáo chủ nền Đại Đạo về phần hữu hình, còn
phần vô vi thì do Đức Thượng-Đế (Đức Chí Tôn), cho nên chữ Đạo 道 (12 nét) đặt trên đỉnh là chỉ ngôi Trời, chính giữa của
ngôi sao; hai bên chữ Đạo là chữ Tam 三 3 nétv à chữ Đại 大 3 nét, chứng tỏ lý tam Âm tam Dương đã tạo nên hình tướng.
Còn lại ba chữ Kỳ 期 (12 nét), tiếp theo là chữ Phổ 普 (12 nét), chữ độ 渡
(12 nét). Cọng chung 6 chữ Nho nầy là 36 nét (12x3=36). Ấy chỉ “ba mươi sáu
(36) từng trời”. Trong lời Kinh Cung Tứ Thời có nói:
“Ba mươi sáu cõi Thiên tào,
“Nhập trong Bát quái mới vào Ngọc Hư”.
Đồng thời cũng nhắc rằng: trên có Tam Thập Lục
Thiên, dưới có Tam Thập Lục Động. Tu là tìm cảnh thăng, tránh cảnh đọa. Đôi đường
hiển hiện là thế ấy! Hai câu trên mang ý nghĩa:
Ba mươi sáu cõi Thiên Tào hay còn gọi là Tam Thập
Lục Thiên.
Nhập trong Bát quái mới vào Ngọc Hư là vào trong
Bát Quái rồi mới được đến Ngọc Hư Cung.
Các Chơn linh phải đi một vòng luân hồi chuyển kiếp,
từ vật chất hồn cho đến nhơn hồn. Nhơn hồn còn phải tu nhiều kiếp để được tiến hóa
từ Thất Thập Nhị Địa, Tam Thiên Thế Giới, đến Tứ Đại Bộ Châu rồi mới vào được
Tam Thập Lục Thiên (Ba mươi sáu cõi Thiên Tào hay 36 từng Trời). Đến được Tam
Thập Lục thiên rồi còn phải tiếp tục nhiều kiếp tu nữa mới đặng lên đến Bạch Ngọc
Kinh để nhập Bát Quái mà vào Ngọc Hư Cung.
Sở dĩ để các chữ Nho là nêu lên tinh thần Nho Tông
chuyển thế; đặt nghịch chiều kim đồng hồ, là sự “phản bổn hoàn nguyên”, tức là
Đạo, là con đường trở về, trở về nguồn, bởi Thầy có dạy “Tu hành vẫn trái với
thế tục, mà trái với thế tục mới đặng gần ánh thiêng liêng”.
Xưa Phật chỉ độ về phần hồn chớ không độ về phần
xác, độ Nam chớ không độ Nữ, độ tử mà không độ sanh, cho nên câu niệm “Lục tự
Di Đà” chỉ có sáu chữ mà thôi; đó là “Nam mô A Di Đà Phật”.
Ngày nay Đức Chí Tôn đến tận độ chúng sanh qui
nguyên vị nên câu niệm có đến 12 chữ, đó là“ Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát
Ma Ha Tát” nên tượng trưng bằng chữ Đạo 道
có 12 nét (gồm 6 Âm và 6 Dương).
Lạy Thầy cũng lạy 12 (ba lạy, mỗi lạy 4 gật). Bởi
“Thập Nhị Khai Thiên là Thầy, Chúa của Càn Khôn Thế Giới, nắm trọn Thập Nhị Thời
Thần vào tay. Số 12 là số riêng của Thầy”.
Nơi cõi vô hình phải có Thập Nhị Khai Thiên tức là
Thập Nhị Thời Thần phối hợp nhau để tạo nên cung Trời, thì ở mặt thế này đối tượng
của Thập Nhị Khai Thiên là Thập Nhị Thời Quân cũng phải phối hợp cùng nhau để
giúp tạo thành hình tướng của Đạo Cao Đài.
Thập Nhị Thời Quân là mười hai vị Thánh bên Hiệp
Thiên Đài chia làm 3 chi: Pháp, Đạo, Thế dưới quyền của Hộ Pháp, Thượng Phẩm,
Thượng Sanh Chưởng Quản. Thập Nhị Thời Quân chính là Thập Nhị Thời Thần ở hữu
hình, nên số tuổi của các Ngài thể hiện con số Thập Nhị Địa Chi của Đạo Trời,
vì vậy mà tuổi của 12 vị Thời quân mỗi người đứng đầu một con Giáp, không ai
trùng hợp với ai mà lại còn có sự đặt định một cách khít khao, huyền nhiệm vô
cùng. Đức Hộ Pháp có giải:
“Cả toàn Thánh thể và con cái Đức Chí Tôn đều hiểu:
trong 12 vị Thời Quân của 12 con giáp là cơ huyền bí tạo Càn Khôn Vũ Trụ thế
nào có lẽ cả tinh thần của toàn thể con cái Đức Chí Tôn đều hiểu thấu”. Các
Chơn Linh đến bực nào cũng phải do nơi ấy mà xuất hiện, như Thầy nắm trọn Thập
Nhị Thời Thần vào tay rồi mới Khai Thiên Lập Địa:
- Thiên khai ư Tý.
- Địa tịch ư Sửu.
- Nhơn sanh ư Dần.
Khi đề cập tới vũ trụ và nhân sinh, người đạo Cao
Đài thường lưu truyền câu Thiên khai ư Tý, Địa tịch ư Sửu, Nhơn sanh ư Dần: Trời
mở mang ở Hội Tý, Đất mở rộng thêm ở Hội Sửu, Người sanh ra ở Hội Dần. Các hội
tiếp theo là sự tiến hóa của Trời, Đất, Người (Thiên, Địa, Nhơn) và vạn vậtđến
chỗ hoàn hảo. Đó là nói theo chu kỳ tạo đoan của vũ trụ.
Trời có ba báu là: Nhựt, Nguyệt, Tinh; Đất có ba
báu là: Thủy, Hỏa, Phong; Người có Tam Bửu là:
Tinh, Khí, Thần. Trời (Thiên) có ba báu ấy mà hoá
sanh vạn vật, dưỡng dục muôn loài, chuyển luân càn khôn thế giới, phân ranh
ngày đêm. Đất (Địa) nhờ ba báu ấy mà mưa gió điều hòa, cỏ cây tươi nhuận thời tiết
có bốn mùa. Người (Nhơn) có tam bửu để nuôi dưỡng thân thể, minh mẩn phát kiến
khoa học giúp nhân loại. Con người qui được tam bửu ngũ hành thì đắc quả đạt Đạo.
Các chơn linh dầu nguyên nhân hay là Hóa nhân, hễ
chịu hữu sanh thì đều nơi tay Thập Nhị Thời Quân mà siêu đọa, cũng như Thần,
Thánh, Tiên, Phật nhờ Thập Nhị Thời Thần mà thăng giáng.
Thập Nhị Thời Quân tức là Thập Nhị Thời Thần tại
thế đó vậy.
Hình số 6: Đức Hộ Pháp và các vị Thời Quân Hiệp Thiên.
Đài Nhìn chung vào tấm huy hiệu hình sao sáu (6)
cánh này (Hình số 5) có 7 điểm (6 cánh + 1 tâm) mà điểm giữa là hình ảnh của Hộ
Pháp ngự trị. Số 7 chỉ về người, ứng với số của Trời là 1. Trước đây đã nói
Giáo Tông cũng đứng chủ trung con số 7 ấy là cơ hiển, tức cơ Âm (Cửu Trùng
Đài), giờ này Hộ-Pháp cũng nắm con số 7 là cơ ẩn, ấy là cơ Dương (Hiệp Thiên
Đài).
Trên tấm huy hiệu còn có 4 chữ “Đảng Phái Thống Nhứt”
(ĐPTN) ngoài ý nghĩa là một nền Tôn giáo Đại Đồng ra, thì con số 4 là chỉ Tứ âm
Tứ dương, để hiệp vào các con số Tam ở trên mới tạo thành Bát quái, và 5 chữ
“Giáo Chủ Phạm Công Tắc” (GCPCT) vừa xác định ngôi vị của Ngài trong nền Đại Đạo,
mà con số 5 cũng để xác định là số “ngũ trung” tức là Tâm của Bát Quái nữa. Về
sau chính Ngài Hộ Pháp Phạm Công Tắc là Giáo Chủ Đạo Cao Đài tại Thế.
Nhìn riêng từng góc độ, Tam giác đều tượng trưng
cho ba trạng thái của vạn vật, những hiện thân của Thượng Ðế và chúng được hiểu
như là tam vị đồng nhất thể trong những tôn giáo khác nhau và được nhân cách
hóa trong Công giáo như là Ngôi Cha, Ngôi Con, Ngôi Chúa Thánh Thần, và bên Ân
Ðộ giáo gọi là Shiva, Vishnu, và Brama. Tam giác có đỉnh hướng xuống và tam
giác có đỉnh hướng lên trời lần lượt biểu tượng cho sự sống của Thượng Ðế đí xuống
vào vật chất và sự sống của Thượng Ðế đi lên, vượt ra khỏi vật chất đi vào
trong tinh thần, sự đối đãi, sự tương phản giữa năng lượng sáng và tối sẽ mãi
mãi không ngừng trong thiên nhiên và con người.
Giáo Lý căn bản của Đạo Cao Đài là “Thiên Địa Vạn
Vật Đồng Nhất Thể”: Trời đất vạn vật có cùng một bản thể; “Nhất Bổn Tán Vạn
Thù, Vạn Thù Qui Nhất Bổn”. Đây là con đường Trở Về hay Phản Bổn Hoàn Nguyên.
Giáo lý Cao Đài quan niệm vũ trụ là một trường tiến hóa có khởi điểm từ bản thể
Đại Linh Quang, tức Thượng Đế (Đức Chí Tôn), phóng phát các điểm Tiểu Linh
Quang tiềm tàng trong vạn loại để tiến hóa từ khoáng sản (đá), đến thảo mộc,
thú cầm, đến con người. Rồi từ con người đến các bậc Thiêng Liêng Thần Thánh
Tiên Phật để trở về hiệp nhất với Thượng Đế (Đức Chí Tôn).
Trong cửa Đạo Cao Đài, hình tam giác tượng trưng
cho Tam giáo đồng nguyên. Hình ảnh Tam Giác Đều, đỉnh quay lên, được biểu tượng
bằng ba ngôi: Phật, Pháp, Tăng.
Hình số 7: Thiên Nhãn trong hình Tam Giác Đều ở
hai bên hành lang Đền Thánh, Đỉnh Tam Giác quay lên:
Quyền Chí Linh.
- Phật tức là Đấng cầm quyền Chúa Tể càn khôn vũ
trụ là Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế hay còn gọi là Đại Từ Phụ.
- Pháp là ngôi của Đức Phật Mẫu Diêu Trì cầm quyền
năng tạo khí thể của toàn vạn linh sanh chúng là Mẹ của cả chúng sanh.
- Tăng là ngôi của Đấng đại diện trong mỗi nguơn hội.
Nay là thời kỳ của Đức Di Lạc VươngC hưởng quản.Tam kỳ còn gọi là “Tam Thiết
Long Hoa Bạch Vương Đại Hội Di Lạc Cổ Phật Chưởng Giáo Thiên Tôn”.
Hai Ngôi Phật, Pháp không đổi. Ngôi Tăng thay đổi
tùy mỗi thời kỳ (Tịch Đạo).
V. Hộ Pháp Làm Chủ Bát Quái Đồ Thiên Tam Âm tam
Dương và Tứ Âm Tứ Dương hiệp lại sẽ thành Bát Quái Đồ Thiên mà Hộ Pháp vi chủ.
Trên đây Giáo Tông làm chủ Bát Quái hữu hình, giờ
thì Hộ Pháp làm chủ Bát Quái vô vi.Vậy Âm Dương không xa lìa nhau. Khi Giáo
Tông và Hộ Pháp hiệp một là quyền Chí Tôn tại thế. Ngày nay Đạo Cao Đài dùng
Bát Quái Đồ Thiên là hình ảnh của Bát Quái Hậu Thiên lật ngược lại, đồng thời xoay
ngang qua, biến trục Nam Bắc thành Đông Tây, y như hướng của Đền Thánh Toà
Thánh Tây Ninh.
Quả thật bài thơ trên cũng như huy hiệu ngôi sao
sáu cánh đã vẽ nên trách nhiệm và quyền hành của Hộ Pháp mà Đức Chí Tôn đã giao
phó lập thành Quốc Đạo chính là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ngày nay đó vậy.
Hồi hạ tuần tháng 7 năm Ất Sửu (1925), ba vị Cao
Huỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang (sau đắc phong là Thượng Phẩm, Hộ Pháp,
Thượng Sanh) tiếp điển, thông công với các Đấng Thần linh,có một Đấng xưng là
AĂÂ, gõ bàn làm một bài thi như dưới đây:
“Ớt cay cay ớt gẫm mà cay,
“Muối mặn ba năm muối mặn dai.
“Túng lúi đi chơi nên tấp lại,
“Ăn bòn chẳng chịu tấp theo ai.”
Sau nầy Đấng AĂÂ cho ba vị nầy Cư, Tắc và Sang biết
là Đấng Chí Tôn đến Việt Nam khai mở Tam Kỳ Phổ Độ. Trong bài thơ trên, Thầy (Đức
Chí Tôn) cho hai câu đầu là:
“Ớt cay,cay ớt, gẫm mà cay” là xác định 3 nét
dương quẻ Càn ☰
Tam Dương khai Thái, Càn tượng Trời.
“Muối mặn ba năm muối mặn dai” xác định hai lần
nét Âm, quẻ KHÔN ☷,trong
ý nghĩa Tham Thiên lưỡng địa.
Ngòai ra ba (3), năm (5) là con số chỉ Tam (3)
Giáo qui Nguyên Ngũ (5) Chi Phục Nhứt là quyền hành tối thượng và tối đại của Đức
Hộ Pháp Phạm Công Tắc trong buổi này.
Nếu viết 35 là số tuổi đời của Đức Ngài khi Đức
Thượng Đế đem Đạo đến cứu Đời. Ngài theo tiếng gọi thiêng liêng, suốt 35 năm phế
đời hành Đạo và quyết ra tay chống đỡ Đạo quyền. Ngài cho 70 năm cũng đủ.!
…Tuổi đã bảy mươi cũng đủ rồi!
Nhớ tiếc sức phàm thừa chống chỏi,
Buồn nhìn cội Đạo luống chơi vơi.
Rồi đây ai đến cầm Chơn pháp ?
Tô điểm non sông Đạo lẫn Đời.
Hai số 3 và 5 nếu cộng lại sẽ là 8 chỉ về Bát (8)
Quái Cao Đài. Nhưng còn chữ “dai” (Muối mặn ba năm muối mặn dai) tức là hơn 1,
có nghĩa là “hai”. Đây là Đức Ngài nắm cả hai Bát Quái Cao Đài về vô hình
(Dương) là Bát Quái Đồ thiên và Bát Quái Hư vô; cũng như Đức Quyền Giáo Tông
cũng có nhiệm vụ như Ngài, nhưng cơ hiển (Âm). Âm-Dương Hiệp Nhứt, hai quyền
hành này thống hiệp lại sẽ là Quyền Chí Tôn tại thế: Chưởng Quản Nhị Hửu Hình
Đài.
Hai câu thơ sau cùng của bài thơ trên:
“Túng lúi đi chơi nên tấp lại,
“Ăn bòn chẳng chịu tấp theo ai”
Trong hai câu này là ám chỉ về số không, như:
- “túng lúi” là không tiền (0)
- “ăn bòn” chỉ không tiền, (0)
- “chẳng chịu tấp theo ai” (0)
Như vậy có cả thảy là ba (3) con số không (0). Nếu
viết ba (3) con số 000 rồi đặt số 3 ở phía trước, thành ra 3.000 (ba ngàn) ấy
là chỉ về công quả của người tu theo Đạo Cao Đài ngày nay là phải lập cho được
“ba ngàn (3.000) công quả”.
Như lời của Trang-Tử nói trong sách Nam-Hoa-Kinh:
- Chí nhân vô kỷ (0) quên mình mà lo cho người
- Thần nhân vô công (0) không ham công
- Thánh nhân vô danh (0) chẳng mến danh.
Một người tu dù ở bậc phẩm nào cũng phải thể hiện
cho được “ba ngàn công quả”.Ấy là phươngchâm hành đạo của người tu mà Đức Chí
Tôn đã ân cần dặn bảo.Tức nhiên người tu phải biết quên mình mà lo cho người,
chẳng ham công, chẳng mến danh, ấy là hạnh đức của người tu theo Tôn chỉ của Đạo
Cao Đài là phụng-sự.
Bài thuyết-đạo 30-9- Đinh Hợi, Đức Ngài Hộ Pháp kể
lại rằng:
“Hai chữ Quốc Đạo lần đầu Chí Tôn viết ra làm cho
Bần Đạo mờ-mịt, cũng vì hai chữ Quốc Đạo ấy mà Phạm Công Tắc chết năm 35 tuổi,
thí thân theo đuổi làm cho ra thiệt tướng.
Ôi, hai chữ Quốc Đạo là một vật của Bần Đạo tìm
tàng rồi mới biết khôn, khởi điểm biết thương nòi giống, biết thương Tổ quốc,
đeo đuổi mất còn với cái muốn khát khao từ buổi thanh xuân đó vậy. Tự biết khôn
dĩ chí gặp Đạo năm 35 tuổi, Bần Đạo thấy sao mà phải khát khao thèm lạt, tại
làm sao Chí Tôn biết thiếu thốn nơi tinh thần điều ấy mà cho Bần Đạo? Bần Đạo
ban sơ nghi hoặc, có lẽ Đấng có quyền năng thiêng liêng biết tâm lý đang nồng
nàn ao ước, đương thèm lạt khao khát, đương tìm tàng mà đem ra cám dỗ.
Hại thay! Yếu ớt đức tin, ngày nay Bần Đạo ăn năn
quá lẽ, 15 năm đã đặng thấy gì? Cả thiên hạ nói rằng nòi giống Việt Nam không
có Đạo. Lạ lùng thay, chúng ta tự hỏi có thật vậy chăng?
- Thật quả có chứ! Có nhiều Đạo quá mà thành ra
không Đạo, mượn Đạo, xin Đạo của thiên hạ mà thôi”.
Thử hỏi tại sao Đức Chí Tôn cho Ngài bài thơ “dị hợm”
như vậy?
- Chỉ vì Thánh ý muốn dấu Ngài trong lớp “lá ủ” để
cho không bị sự ganh hiền ghét ngõ. Thế mà không khỏi lắm điều pháp nạn suýt đến
bỏ thây xứ người.
Câu: “15 năm đã đặng thấy gì?”viết bên trên còn có
một ý nghỉa “huyền diệu” nữa.
Quả thật đây là một sự xác nhận về con số Hiệp
Thiên Đài chỉ có 15 người mà thôi (Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh và Thập Nhị
Thời Quân). Số 15 này lại là số Ma Phương trong Bát Quái, chỉ sự thiên biến vạn
biến đến vô cùng mà Đức Chí Tôn đã dạy Ngài trong “Phép Biến Thân”.
Thử tìm xem nghĩa gì?
Đức Hộ Pháp lập lại lời nói của Thầy rằng: “Thầy
muốn nơi nào có dấu chơn của “Ba Con” đến thì nơi đó hết khổ và Chí Tôn cho biết
rằng cái khổ ách của nhơn loại là cùng khắp thế gian, nên Thánh ý Thầy muốn
giao cơ cứu khổ cho con phải làm thế nào nêu ngọn cờ cứu khổ để giải khổ cho
nhơn sanh cùng khắp mặt địa cầu nầy”.
Qua không hiểu Qua là thế nào mà khi Thầy biểu Qua
phải lãnh làm rồi Thầy sẽ dạy Pháp Biến Thân con ra vạn ức ... Buổi nọ Chí Tôn
dạy phải vưng, chớ chưa hiểu Pháp Biến Thân của Chí Tôn đã ban cho ra thể nào. Khi
chưa có Hội Thánh Phước Thiện Qua rất ngại, đến chừng Chí Tôn dạy muốn lập Hội
Thánh Phước Thiện phải lập Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng trước, thật là quyền năng
Chí Tôn vô đối, khi ban cho Qua không bao lâu mà lập thành được Hội Thánh Phước
Thiện, tức nhiên là Hội Thánh Hiệp Thiên Đài. Bây giờ đây đã có mấy em sẽ nối
gót phụng sự Hội Thánh Phước Thiện chung lo gánh vác cơ cứu khổ để thay thế cho
Qua gần gũi chúng sanh để phụng sự, gánh sự khổ não của con người thì thấy rằng:
Chí Tôn đã giúp cho Qua thêm được nhiều tay chơn để lo cứu khổ cho mau ra chơn
tướng.”
VI. Quyền Hành Của Hộ Pháp.
“Hộ Pháp thì lo giữ luật lệ của Đạo cho khỏi sái
Thiên điều, vì luật lệ của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ngày nay thì thế cho Thiên điều.
“Hộ Pháp có quyền đặc biệt về ân xá cũng như Giáo
Tông có quyền về Chánh trị vậy”.
“Hộ Pháp Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài có Thượng Phẩm,
Thượng Sanh và Thập Nhị Thời Quân giúp sức. Hễ Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp một là quyền
Chí Tôn tại thế. Lại nữa Hộ Pháp còn là Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài tức là Hiệp
Thiên và Cửu Trùng nên mới được gọi là Giáo Chủ, nhưng chỉ đứng về phương diện
hữu hình mà thôi.
Những lời luận bàn trên đều đúng vào cuộc đời hành
đạo của Đức Hộ Pháp. Hầu như số định của mỗi người đều được thiêng liêng ấn định,
cho nên con số 7 của sao sáu cánh đã điểm đúng vào bức ảnh bán diện của Ngài, định
cho cuộc đời của Ngài là 70 tuổi, bởi số 7 hiệp với Tâm 0 là trở về vô vi,
thành ra con số 70. Đức Ngài có nói trong bài thài cúng tế Đức Ngài, có câu:
“Nào hay vạn sự do Thiên định,
“Tuổi đã bảy mươi cũng đủ rồi.
“Nhớ tiếc sức phàm thừa chống chỏi,
“Buồn nhìn cội Đạo luống chơi vơi…”
Đức Hộ Pháp cũng như Đức Quyền Giáo Tông đều nắm
trọn hai Bát Quái vào tay, nhưng Giáo Tông hữu hình, còn Hộ Pháp thì vô vi cho
nên bài thơ Đức Chí Tôn ban cho có câu “Muối mặn ba năm muối mặn dai”, nếu lấy
(3+5=8). Tám là chỉ Bát-quái, mà chữ “dai” chứng tỏ sự kéo dài, tức là nhiều
hơn số 1, vậy là số 2. Hai lần Bát quái ấy là Bát quái Đồ thiên và Bát quái Hư
vô chỉ riêngĐạo Cao Đài mới có.
Quả thật Chí Tôn đã “chọn mặt gởi vàng” đúng đối
tượng, bởi Ngài lúc nào cũng tha thiết với sứ mạng của mình, rằng:
“May một điều là Tôi còn thiếu với Đức Chí Tôn Tôi
xin đầu kiếp, thiếu hay không mà kiếp này Tôi là tên dân nô lệ cho nước Việt
Nam, đã chịu thống khổ tâm hồn lẫn hình thể trên 35 năm.
“Tôi không xin, không biết tại sao Tôi đầu kiếp xuống
dân Việt Nam, Tôi cảm kích vô hạn: nào chịu khổ, nào chịu bạc nhược và yếu hèn,
tại thấy nhơn loại đau đớn Chí Tôn mới đến mở một nền Tôn giáo, làm một khối
sanh quang cho toàn nhơn loại đó là cái danh dự của nước Việt Nam đã chịu khổ.
“Vì cái tình Chí Tôn đối với dân tộc Việt Nam nên
Tôi thí thân phải chết mới đền bồi xứng đáng”.
Đức Hộ Pháp vừa lo cho Cơ quan Cửu Trùng Đài lại vừa
lo cho Hiệp Thiên Đài, Ngài cũng có lời than: “Hại thay! Chớ phải chi hai lẽ
thiện và ác ấy cả Thánh Thể của Ngài đi một lối mà thôi, nói đơn giản: thà là
làm thầy chùa thì thầy chùa, thầy pháp là thầy pháp; Đạo thời Đạo đi cho triệt
để, hay Đời cho triệt để đi”.
Khổ não thay! Thánh thể Đức Chí Tôn vì lãnh nơi mạng
lịnh của Ngài, đến làm tôi con của Ngài cho toàn vẹn nơi thế gian của Ngài. Hỏi
vậy chớ Đại Từ Phụ đã giao cho ta có phải giao Thánh hay là giao Phàm? Nếu ta lấy
theo sự suy gẫm của ta, ta phải nhìn rằng Đại Từ Phụ đã giao cho ta Phàm nhiều
hơn Thánh, lẽ dĩ nhiên trước mắt ta đã ngó thấy.
“Tự thuở nay con người dầu sức mạnh mẽ thế nào
gánh một vai mà thôi, Đại Từ Phụ lại buộc cả Thánh Thể của Ngài phải gánh hai
vai Đời và Đạo. Cái kiểu vở hai Tôn giáo trước mắt ta, ta ngó thấy:
- Phật giáo thì nghiêng cái gánh bên Đạo,
- Công giáo lại nghiêng cái gánh bên Đời.
Đời, Đạo; Phàm Thánh. Đức Chí Tôn đến lập Thánh thể
của Ngài, Ngài biểu phải đứng Ngay Chính Giữa của nó. Luận ra cho cùng lý, thì
Hội Thánh của Ngài buộc không Đời mà cũng không Đạo, ở giữa cái mức trung tâm của
Đời và Đạo”.
Một lần nữa, Đức Hộ Pháp xác nhận:
“Bần Đạo nhớ lại hồi buổi ban sơ mới khai Đạo, thật
ra Bần Đạo không có đức tin gì hết, không có đức tin đến nước Đại Từ Phụ tức cười.
Ngài đến nhà Bần Đạo năm Sửu dạy cả mấy Anh lớn ngày nay là Chức sắc của Đạo,
đi đến mọi nhà. Thật ra Đức Chí Tôn đến thăm, đến viếng mọi con cái của Ngài.
“Bần Đạo không đức tin gì hết, nghe nói Tiên
giáng, đi theo nghe thi chơi, làm cho Đại Từ Phụ phải tức cười. Ngài cho bài
thi ai nấy cũng tốt, duy có bài thi của Bần Đạo di hợm như vầy:
Ngao ngán không phân lẽ thiệt không,
Thấy thằng áp út quá buồn lòng.
Muốn giàu Thầy hứa đem cho của,
Cái của cái công phải trả đồng
Đại Từ Phụ còn thêm hai chữ “Nghe con”!
Cho đến bảy tháng, lúc xuống ở Thủ Đức, năm thiên
hạ bị bịnh chướng, khi không khởi phù mình rồi chết, nhứt là ở tại Thủ Đức lắm
bịnh nhơn quá chừng. Đức Chí Tôn biểu xuống ở Thủ Đức cứu bịnh cho họ trong bảy
tháng, xuống ở Thánh Thất của Đạo, nhờ Đức Lý giảng dạy với ngòi bút trọn bảy
tháng trường mới biết Đạo. Có cái hay ho hơn hết là những điều gì Ngài dạy
trong Cơ bút là những sở hành trong kiếp sanh của Bần Đạo”.
Qua hai bài thi trên Đức Chí-Tôn giáng ban cho Đức
Hộ Pháp, Người đều không vừa ý và đều cho rằng “dị hợm”. Nghĩ ra cũng “dị hợm”
thiệt! Vì sao?
Vì trọng trách của Người quá ư to lớn! Thường gánh
một gánh đã oằn vai, nhưng bấy giờ Ngài phải gánh hai gánh một mình; bởi:
“Trong buổi kỳ ba phổ độ, Chí Tôn giáng cơ tiếp điển
mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ hiệp đủ Phật, Tiên, Thánh, là kỳ kiết quả, độ đủ 92 Ức
Nguyên-Nhân trở về nguyên thủy. Sách có câu “Thiên địa tuần hoàn châu nhi phục
thủy, Tam giáo qui nguyên Ngũ chi phục nhứt” (câu đầu nghĩa là: Trời Đất xây vần
giáp vòng thì trở lại lúc khởi đầu). Thế nên bí pháp này đã thể hiện trong cái
“bắt ấn Tý”, đó là “Ấn kiết quả”, tức là đã tới thời kỳ kết quả, gặt hái, thu
hoạch.
Ấy là nhiệm vụ của Hộ Pháp trong cơ chuyển thế và
cứu thế!
Câu thơ 1: “Ngao ngán không phân lẽ thiệt không” Hai chữ “ngao ngán” trong câu thơ đầu tiên có đến
hai chữ “không” và nhất là chữ “phân” 分 nó kết hợp bởi bộ đao 刀và chữ bát 八 ý nói dùng con dao cắt ra
làm tám mảnh một vật gì; muốn nói đến số 8 là chỉ về Bát quái. Bát quái là do
hai lần Tứ tượng họp lại. Mà ở phần Thiên đạo của Đạo Cao Đài có đến hai Bát
quái.
Cả câu trên là chỉ sự biến dịch của trời đất, âm
dương, cương nhu, ở người là nhân nghĩa, đi trong vòng lý Tam Tài: Thiên, Địa,
Nhơn (Trời, Đất, Người) vậy.
Câu thơ 2: “Thấy thằng áp út quá buồn lòng”
Ngón tay “áp út” là chỉ vào ngón trước của ngón
út, tức là ngón tay không tên hay còn gọi là “vô danh chỉ” là ngón tay “đeo nhẫn”.
Bởi Đức Hộ-Pháp là con thứ tám trong gia đình, đứng
vào hàng áp út, vì sau Ngài còn có một em gái thứ chín đã chết khi còn nhỏ.
Về lý Đạo muốn nói đây là “vô danh thiên địa chi
thủy” (không tên là khởi thủy của trời đất) đúng vào cung Tý là sự khởi điểm.
Ngón cái là ngón mẫu “hữu danh vạn vật chi mẫu”. Khi bắt ấn Tý thì ngón cái ấn
vào cung Tý ấy là Âm Dương Hiệp Nhứt, đó là Ấn Tý của Đức Chí Tôn ban cho nhân sanh
trong kỳ ba Phổ Độ này ấy là ấn kiết quả. Kiết quả là kết trái. Do đó nếu tu thì
thành như lời Đức Chí Tôn đã hứa, chẳng những độ cả toàn cầu nhơn loại, mà còn
độ cả vạn linh nữa “Bát hồn vận chuyển hóa thành chúng sanh”.
Người mà Chí Tôn sắp giao cho hai cái gánh nặng của
Đời và Đạo ấy chính là Phạm Công Tắc trong buổi “Nhơn sanh ư Dần” cũng hiệp với
tuổi của Ngài là năm Canh-Dần (5-5 Canh Dần 1890) là ngày và năm sinh của Ngài
nữa, đó là đã đi vào cơ Nhị Ngũ (hai con số 5).
Xem thế thì Ngài đã hiệp đủ ba con số 0 “không” đủ
cho Thầy chọn lựa Người để Thầy giao cho “cây cân Công Bình (Thiên Bình) thiêng
liêng tạo hóa”. Bởi hai câu thi sau:
“Muốn giàu Thầy hứa đem cho của,
“Cái của cái công phải trả đồng.”
Hình ảnh “cây cân Công Bình dưới bàn tay của Thượng
Đế” cho ta thấy: nếu khi cả hai bên cân và vật đồng nhau thì cây kim mới chỉ
vào điểm 0. Cũng như hai gánh Đạo và Đời mà Ngài sắp giao cho Ông Phạm Công Tắc
cũng phải giữ cho tương đồng thì mới vẹn phận “Đạo Đời tương đắc” vậy.
Hiện tại Chức sắc Hiệp Thiên Đài biểu hiệu bằng
“Cây Cân Công Bình” đính trên mão.Vai trò của ông Hộ Pháp Phạm Công Tắc tạo Đạo
cứu Đời.
Đức Hộ Pháp nói:
“Đức Đại Từ Phụ với lòng đại từ đại bi của Ngài
không thể gì nói đặng. Hai mươi mấy năm trường Ngài đến Ngài độ từ đứa, Ngài dụ
từ người, đem cả một thể thống thiêng liêng vô cùng vô tận, quí hóa kia đem đổi
lại một tấm yêu ái của chúng ta đặng làm cơ quan cứu thế.
Buổi Ngài mới đến, Bần Đạo thú thật phần nhiều anh
em chúng ta buổi nọ không hiểu Đạo là gì, dầu đàn anh của chúng ta có sứ mạng
nơi mình lãnh trách nhiệm làm Thánh Thể cho Ngài, khi ấy cũng không biết Đạo là
gì cả, chỉ nhắm mắt theo Ngài mà thôi; chính Bần Đạo buổi nọ, Đại Từ Phụ xin Bần
Đạo, nói xin lại với một lời yếu thiết:
- “Tắc! dâng cả mảnh thân con đặng Thầy tạo Đạo cứu
đời, con có chịu chăng?
Bần Đạo trả lời với Ngài một cách quả quyết rằng:
Nòi giống con còn nô lệ, nước nhà còn lệ thuộc,
thì làm thế nào con tu cho đặng!
Ngài cười nói:
Nhưng điều ấy các con làm không đặng đâu, để đó
cho Thầy.
Tiếng “để đó cho Thầy” Bần Đạo nhớ lại nói dễ như
không không, mà đã hai mươi mấy năm trường rồi đó. Ngài hứa khi Ngài mới đến
cùng Cao Thượng Phẩm và Bần Đạo cuối năm Tý đó vậy, theo phàm tánh của ta có lẽ
buồn, nhưng vì chúng ta sống trong thời gian, còn Đức Chí Tôn sống trong không
gian; chúng ta tính từ ngày, tháng, năm; còn Ngài chỉ lấy quyết định của Ngài
làm căn bản mà thôi. Lời hứa đơn sơ ấy ngày nay chúng ta đã thấy rằng Ngài
không bao giờ thất hứa với chúng ta đó vậy, nếu chúng ta đoán xét kỹ cơ quan của
Ngài đã thi thố, đã giải ách nô lệ cho nòi giống Việt Nam, chúng ta ngó thấy một
hành tàng khắc khe khó nói, thi thố với một cách mà trí óc phàm chúng ta không
thể đoán đặng và Bần Đạo nói rằng không có một tay phàm thi thố đặng; muốn giải
ách nô lệ cho nước Việt Nam mà dùng quyền phép vô biên của Ngài đào độn cả vạn
quốc hoàn cầu đặng làm cho sôi nổi một trường chiến tranh của toàn thế giới giục
thúc các nước còn lạc hậu chiến đấu lấy cho đặng quyền sở hữu của họ, giành cho
được độc lập cho nòi giống và quốc gia của họ.
Quyền sở hữu ấy là quyền định sống của họ đó vậy.
Nơi cõi Á đông cả toàn thể nước nào còn lạc hậu đều
đặng giải thoát, đều chiến đấu đặng tranh độc lập và thống nhứt.
Nước nhà nòi giống Việt nam cũng tấn triển theo khuôn
luật ấy mà định vận mạng lấy mình, không coi lại sự độc lập và thống nhứt nước
Việt-Nam có nhiều điều khắc khe mà trí óc phàm này không thế làm đặng nên phải
dùng tay của Đức Chí Tôn, cả con cái của Ngài, Bần Đạo đứng nơi tòa giảng này
không nói thêm, không nói bớt:
- Khó nhứt là nước Việt Nam,
- Nòi giống Việt Nam,
- Quốc gia Việt Nam.
Đã thiếu Ngài một nợ tình, không biết giá trị nào
nói cho đặng.Thâm tâm của Ngài muốn gieo một nợ tình với quốc dân, đặng chi? Ta
nêu một dấu hỏi (?).
Thêm cho đủ yếu lý ấy. Bần Đạo nói sự mơ ước của
Ngài rất đơn giản, rất nhẹ mà giá trị không cùng, chỉ muốn quốc dân Việt Nam
làm Thánh thể của Ngài, thay thế hình ảnh của Ngài đặng chia khổ cho Ngài,
chung hiệp cùng Ngài, hầu nâng đỡ kẻ khổ, an ủi tâm hồn nhơn loại đang đau đớn trong
buổi cạnh tranh giành sống của họ, của cơ quan tranh đấu cho kỳ đặng độc lập, đặng
bảo vệ sự sanh sống của họ, nếu không mực thước chuẩn thằng
định tâm lý của họ, dầu cho đấu tranh để lập quyền sống của mình ít nữa phải có
Nhơn đạo đặng giúp mạng sống của người, chớ đừng bảo vệ mạng sống của mình để
chiếm đoạt mạng sống của kẻ khác.
Tấn tuồng ấy Bần Đạo chỉ nói là quả kiếp mà thôi.
Đức Chí Tôn Ngài đến lập nền chơn giáo của Ngài cốt yếu làm thế nào cho họ đừng
cướp sống lẫn nhau mà an ủi với nhau ấy là chí hướng của Ngài đó vậy”.(ĐHP
Canh-Dần 1950).
VII. Đấng Chí Tôn đã sai Hộ Pháp làm gì?
Đức Hộ Pháp nói:“Đời quá ư bạo tàn, cho nên Đức
Chí Tôn mới giáng trần mở Đạo cho con cái biết: các ngôi Thần, Thánh, Tiên, Phật
đều tình nguyện hạ thế cứu đời, xuống bao nhiêu lại càng mất bấy nhiêu. Trong
thời kỳ ấy Bần Đạo vâng lịnh Đức Chí Tôn xuống thế mở Đạo, thì Đức Chí Tôn mới hỏi rằng:
- Con phục lịnh xuống thế mở Đạo, con mở bí pháp
trước hay là mở thể pháp trước?
Bần Đạo trả lời:
- Xin mở bí pháp trước.
Chí Tôn nói:
- Nếu con mở bí pháp trước thì phải khổ đa! Đang
lúc đời cạnh tranh tàn bạo, nếu mở bí pháp trước, cả sự bí mật huyền vi của Đạo,
Đời thấy rõ xúm nhau tranh giành phá hoại thì mối Đạo phải ra thế nào?
Vì thế nên mở thể pháp trước, dầu cho đời quá dữ
có tranh giành phá hoại cơ thể hữu vi hữu hủy đi nữa thì cũng vô hại, xin miễn
mặt bí pháp còn là Đạo còn.
Bí pháp là Hiệp Thiên Đài giữ. Thể pháp là Cửu
Trùng Đài mở mang bành trướng về mặt phổ thông chơn giáo”. Bởi thế nên Tôn giáo
Cao Đài ngày nay đứng về hai phương diện:
- Đạo có thể pháp và bí pháp của Đạo tức là Thiên
đạo
- Đời có thể pháp và bí pháp của Đời tức là Thế đạo.
VIII. Thay Lời Kết Từ một quẻ Càn hay quẻ một quẻ
Khôn đã làm nên một Tam giác đều, ấy là một sanh ba, mà ba cũng là một, đó cũng
là lýthuộc về cơ quan Chưởng quản. Rồi đến hai hình Tam giác gát chồng lên nhau
tạo thành ngôi sao 6 cạnh là chỉ Âm Dương Hiệp Nhứt.
Đức Hộ Pháp khi còn sanh tiền Ngài có cho làm một
huy hiệu hình sao sáu cánh sơn màu vàng, giữa có ba sọc đỏ, chính giữa ngôi sao
có ảnh Đức Ngài đầu đội mão trắng, hình bán diện, phía trên bức hình có 4 chữ đặt
theo hình vòng cung “Đảng phái thống nhứt” (ĐPTN), phía dưới bức hình có 5 chữ
cũng đặt theo hình vòng cung nghịch lại: “Giáo chủ Phạm CôngTắc”(GCPCT).
Ý nghĩa hình sao sáu cánh là nói lên lý tam Âm tam
Dương tạo thành Càn Khôn vũ-trụ. Sáu chữ, nghịch chiều với kim đồng hồ, khởi ở
cánh sao trên, phía bên phải (nhìn đối diện) là các chữ: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
là danh hiệu của nền Tân Tôn giáo này mà Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế làm Chúa tể. Ảnh
bán diện của Đức Hộ Pháp là chứng tỏ qưyền uy tối thượng của Ngài là “thay trời
tạo thế” nhưng chỉ có nửa quyền mà thôi, bởi Ngài chỉ là Giáo chủ về phần hữu
hình.
Trên tấm huy hiệu còn có 4 chữ “Đảng phái thống nhứt”
ngoài ý nghĩa là một nền Tôn giáo Đại Đồng ra, và 5 chữ “Giáo chủ Phạm Công Tắc”
vừa xác định ngôi vị của Ngài trong nền Đại Đạo: Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc Giáo
chủ Đạo Cao Đài ở hữu hình.
Tam Âm tam Dương và tứ Âm tứ Dương hiệp lại sẽ
thành Bát Quái Đồ Thiên mà Hộ Pháp vi chủ.
Âm Dương không xa lìa nhau. Giáo Tông và Hộ Pháp
hiệp một là quyền Chí Tôn tại thế.
Huy hiệu ngôi sao sáu cánh đã vẽ nên trách nhiệm
và quyền hành của Hộ Pháp mà Đức Chí Tôn đã giao phó lập thành Quốc Đạo chính
là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ngày nay đó vậy.
“Hộ Pháp thì lo giữ luật lệ của Đạo cho khỏi sái
Thiên điều, vì luật lệ của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ngày nay thì thế cho Thiên Điều.
Hộ Pháp có quyền đặc biệt về ân xá cũng như Giáo Tông có quyền về Chánh trị vậy.
Bí pháp còn là Đạo còn. Bí pháp là Hiệp Thiên Đài
giữ.
Thể pháp là Cửu Trùng Đài mở mang bành trướng về mặt
phổ thông chơn giáo”.
Ngày 17 tháng 10 năm Ất Hợi (12–11–1935) Đại Hội
Nhơn Sanh và Đại Hội Hội Thánh thỉnh Đức Ngài kiêm nhiệm Chưởng Quản Cửu Trùng
Đài, thiên trách nầy đã được Đức Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo Tông Đại Đạo
Tam Kỳ Phổ Độ chấp thuận, Ngài giáng cơ cho bài thơ khoán thủ như sau:
Hộ giá Chí Tôn trước tới giờ
Pháp luân thường chuyển máy Thiên Cơ
Chưởng quyền Cực Lạc phân ngôi vị
Quản xuất Càn Khôn định cõi bờ
Nhị kiếp Tây Âu cầm máy tạo
Hữu duyên Đống Á nắm Thiên Thơ
Hình hài Thánh Thể chừ nên tướng
Đài trọng Hồng Ân gắng cậy nhờ
Trong Thánh Nhôn Hiệp Tuyển cũng có một bài thi:
Bắt ấn trừ yêu đã tới kỳ,
Ngọc Hư định sửa mối Thiên thi.
Cửu Trùng không kế an thiên hạ,
Phải để Hiệp Thiên đứng trị vì.
Hành pháp dìu đời qua nẻo khổ,
Nên công giúp thế lánh cơn nguy.
Quyền hành từ đấy về tay nắm,
Phải sửa cho nên đáng thế thì.
Đức Lý Giáo Tông làm thi cùng Đức Hộ Pháp:
Linh quang chiếu diệu giữa trời đông,
Rõ mặt thiên tôn lập đại đồng.
Nắm phướn từ bi dìu chủng tộc,
Cầm quyền bác ái định chơn tông.
Tùy đời chẳng bỏ mưu Hàn Tín,
Trị thế hằng toan kế Tử Phòng.
Xây máy pháp luân nguơn tái tạo,
Sấn tay vẽ đẹp mối Nam phong.
Ngày 28 tháng 6, năm 2019.
Ban Thế Đạo Hải Ngoại.
QS-TS / Nguyễn Thanh Bình. Sưu Tầm.
IX. Tài Liệu Tham Khảo.
1. Tài liệu sưu tầm tên Internet. Xin thành thật
cám ơn các vị đã đăng các bài viết.
2. Ngôi sao sáu cánh - Ngôi sao David - Ấn triện
Solomon, Orgonite HoangKim, Internet.
3. Thánh Ngôn Hiệp Tuyển QI vá Q II, Ấn Bản Năm
Nhâm Tý (1972).
4. Dich Lý Cao Đài, soạn giả Nguyên Thủy (2007).
5. “Tiểu Sử Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc (1890-1959),
Chưởng Quản Nhị Hửu Hình Đài Hiệp
Thiên Đài & Cửu Trùng Đài Kiêm Thượng Tôn Quản
Thế”, QS TS Nguyễn Thanh Bình, (2018)
6. “Bạch Ngọc Kinh Nơi Đức Chí Tôn Ngự”, QS TS
Nguyễn Thanh Bình (2018)
7. “Đại Đạo Cao Đài và Nền Văn Minh Nhân Loại Ban
Thế Đạo Hải Ngoại Nhập Cuộc”, QS TS
Nguyễn Thanh Bình (2017)
8. “Ý Nghĩa Màu Trắng Và Áo Dài Trong Đạo Cao Đài”,
QS TS Nguyễn Thanh Bình (2018)
9. “Vai Trò Ban Thế Đạo Trong Tịch Đạo Đạo Tâm”,
QS TS Nguyễn Thanh Bình (2019).
10. “Đạo Gốc Bởi Lòng Thành Tín Hiệp”, QS TS Nguyễn
Thanh Bình (2019).
11. Thánh Ngôn Sưu Tập, Q. I, II, II & IV, HT
Nguyển văn Hồng (1925-1971).
12. Thánh Ngôn Hiệp Tuyền, Q. I & II (1972).
13. Lời Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp: Chủ Đề Tam Bửu
(1947).
Home.
Mục Lục: [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ] [ 9 ] [ 10 ] [ 11 ] [ 12 ] [ 13 ] [ 14 ] [ 15 ] [ 16 ]