Nền Tảng & Bản Sắc Văn Hóa Đạo Cao Đài. * Viên Dung.

D
ân tộc Việt có truyền thống văn hiến 5.000 ngàn năm. Thành hình một hệ thống văn hóa nghi lễ Đạo Nho. "Hội Thánh Cao Đài là Hội Thánh của Đạo Nho" (Đức Hộ Pháp).
Đạo Cao Đài còn có tinh chất thuần túy tín ngưỡng Đạo Mẫu. Chân dung của Đức Phật Mẫu trong nền Đạo Cao Đài giống như hình ảnh bà mẹ dân tộc Việt Nam, Mẹ thương con, hi sinh vì con, âm thầm lặng lẽ. Mẹ thương đàn con của mẹ đang đắm chìm tham, sân, si trong bể khổ cuộc đời, vì danh vọng sĩ diện mà trí tuệ vọng tưởng u minh.
"Từ con cách mẹ phương Trời,
Trầm luân khổ hải chơi vơi sóng trần."
Mẹ đau thắt nhìn từng đoạn ruột, vì đàn con thiếu gắn kết, đau hơn thấy tình anh em chia rẽ, gây nên chiến tranh khói lửa. Có bao giờ chúng con nghe được tiếng quặn lòng của Mẹ không? Có bao giờ chúng con biết yêu thương lẫn nhau để làm vui lòng Mẹ yêu? Bởi vậy Mẹ than thở thầm rằng!
"Đỉnh chung là miếng treo gương,
Khiến nên trẻ dại lạc đường quên ngôi.
Ngọt ngon trẻ nhiễm mến mùi,
Trẻ nào có biết khúc nỗi đoạn trường. "
(Kinh Công Đức Diêu Trì Kim Mẫu).
 
Trong nền Đạo Cao Đài còn có Cửu Vị Nữ Phật đồng hành quyền Đạo dưới sự cai quản của Đức Diêu Trì Kim Mẫu. Cửu vị Nữ Phật đã từng là những bậc anh thư Việt Nam, và Nhị Nương Phật là Thánh Nữ Vương:
- Nhất Nương Phật: Tiền kiếp là Hoàng Thiều Hoa, nữ tướng của Hai Bà Trưng sau đó được Hai Bà phong là Thánh Thiên Công Chúa.
Nhứt Nương cầm đàn tỳ bà, cai quản Vườn Ngạn Uyển, thuộc tầng trời thứ nhất của Cửu Trùng Thiên, đón tiếp các chơn hồn quy thiên đi vào Cửu Trùng Thiên, xem xét các nguyên nhân đang còn sống nơi cõi trần hay đã qui liễu. Mỗi đóa hoa trong Vườn Ngạn Uyển là một chơn linh. Khi chơn linh tái kiếp xuống trần thì hoa nở, khi qui liễu thì hoa héo tàn. Khi chơn linh làm điều đạo đức thì sắc hoa tươi thắm, còn làm điều gian ác thì sắc hoa ủ dột xấu xí.
- Nhị Nương Phật: Thần Nữ Vương Chân Lạp, một kiếp giáng trần tại Việt Nam. Nhị Nương có tên là CẨM. Do đó trong lễ Hội Yến Diêu Trì Cung, bài thài hiến lễ Nhị Nương khởi đầu bằng chữ "CẨM".
Nhị Nương cầm lư hương, cai quản Vườn Đào Tiên của Đức Phật Mẫu, thuộc tầng trời thứ nhì của Cửu Trùng Thiên, đón tiếp các chơn hồn quy thiên đến Vườn Đào Tiên, mở tiệc trường sanh đãi các chơn hồn, và đưa các chơn hồn đến Ngân Kiều để cưỡi Kim Quang bay lên Ngọc Hư Cung.
- Tam Nương Phật: Tức là Bà Thiên Mụ đã hiện thân hướng dẫn Chúa Nguyễn Hoàng tìm ra đất Phú Xuân, Huế để lập nên kinh đô triều Nguyễn.
Tam Nương cầm quạt Long Tu phiến, đón tiếp các chư hồn đến tầng trời thứ ba là Thanh Thiên, thả thuyền Bát Nhã nơi bể khổ, đưa các chơn hồn có đủ phước đức qua khỏi bến mê sang bờ giác, quy hồi cựu vị.
Trong một kiếp giáng trần ở Việt Nam, Tam Nương có tên là TUYẾN. Do đó Bài thài hiến lễ Tam Nương trong Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung có chữ khởi đầu là "TUYẾN".
- Tứ Nương Phật: Tiền kiếp là nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, một bậc anh thư nước Việt, đã để lại một điểm son trong kho tàng văn học VN.
Tứ Nương cầm Kim Bảng, hướng dẫn các chơn hồn đến tầng trời thứ tư là Huỳnh Thiên, làm giám khảo tuyển chọn các văn tài trong mỗi khoa thi. Ai hiền đức và học giỏi, Cô mới cho đỗ đạt.
Trong một kiếp giáng trần ở Việt Nam, Tứ Nương có tên là GẤM. Do đó Bài thài hiến lễ Tứ Nương trong Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung có chữ khởi đầu là "GẤM".
- Ngũ Nương Phật: Tiền kiếp là Công Chúa Liễu Hạnh là bậc Thần Linh được tôn thờ nhiều nơi ở miền Trung và Bắc nước ta.
Ngũ Nương cầm cây Như Ý, tiếp dẫn các chơn hồn đến tầng trời thứ năm trong Cửu Trùng Thiên là tầng Xích Thiên. Nơi đây, chơn hồn được hướng dẫn đến Chiếu Giám Minh Cảnh Đài để xem rõ ràng các tội phước mà mình đã gây ra trong suốt kiếp sanh nơi cõi trần, rồi đến Cung Ngọc Diệt Hình để mở quyển Kinh Vô Tự cho chơn hồn thấy rõ quả duyên của mình.
Trong một kiếp giáng trần ở Việt Nam, Ngũ Nương có tên là LIỄU. Do đó Bài thài hiến lễ Ngũ Nương trong Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung có chữ khởi đầu là "LIỄU".
- Lục Nương Phật: Tiền kiếp là Thánh nữ Jeanne D’Arc ở Pháp, sau đó bà tái kiếp ở Việt Nam có tên là Hồ Thị Huệ là phối thất của vua Minh Mạng và là mẹ sanh ra vua Thiệu Trị.
Lục Nương cầm phướn truy hồn, tức là phướn Tiêu Diêu, độ dẫn khách trần, và tiếp đón các chơn hồn đến tầng trời thứ sáu là Kim Thiên, đưa chơn hồn đến Đài Huệ Hương xông thơm chơn thần, trỗi nhạc Thiên thiều đưa chơn hồn lên cõi Niết Bàn.
Lục Nương giáng trần ở nước Pháp là Thánh Nữ Jeanne d’Arc (1412-1431), một vị Nữ Anh hùng cứu nguy nước Pháp, sau đó lại giáng sinh ở Việt Nam có tên là HUỆ.
Do đó Bài thài hiến lễ Lục Nương trong Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung có chữ khởi đầu là Đức Phật Mẫu "HUỆ".
- Thất Nương Phật: Tiền kiếp là Vương Thị Lễ, cháu ngoại của Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương (Sài Gòn).
Thất Nương cầm bông sen, hướng dẫn các chơn hồn đến tầng trời Hạo Nhiên Thiên để bái kiến Đức Chuẩn Đề Bồ Tát.
Thất Nương là vị Nữ Tiên đầu tiên giáng bàn (thuở còn xây bàn) dùng thi văn để dẫn dắt các vị nguyên căn vào cửa Đạo làm môn đệ cho Đức Chí Tôn, để sau này các vị ấy trở thành tướng soái cho Chí Tôn mở Đạo.
Thất Nương lại để lòng từ bi tình nguyện lãnh lệnh Ngọc Hư Cung đến cõi âm quang để giáo các nữ tội hồn, để họ sớm thức tỉnh mà được tái kiếp trả cho xong căn quả và lo tu hành lần về cựu vị.
Trong một kiếp giáng trần gần đây nhứt, Cô có tên là Vương Thị Lễ, sanh năm 1900 tại Chợ Lớn, con của ông Vương Quan Trân, và bà Đỗ Thị Sang (con gái của Tổng Đốc Phương). Ông Vương Quan Trân làm Đốc phủ, là anh ruột của ông Vương Quan Kỳ, đắc phong Giáo Sư Thượng Kỳ Thanh ở Thánh Thất Cầu Kho. Cô Lễ bị bạo bệnh mất năm 18 tuổi.
- Bát Nương Phật: Tiền kiếp là Nữ tướng Hồ Đề giúp Hai Bà Trưng đánh đuổi quân Nam Hán, Bà được Hai Bà Trưng phong là Phó Nguyên Soái và sau đó là Đề Nương Công Chúa.
Bát Nương cầm giỏ Hoa Lam, dày công giáo hóa và xây dựng Đạo Cao Đài buổi sơ khai, có phận sự độ rỗi các nguyên nhân còn tại thế, nhứt là nữ phái, tiếp đưa các chơn hồn đến tầng trời Phi Tưởng Thiên bái kiến Đức Từ Hàng Bồ Tát. Ai có việc chi cầu khẩn với Bát Nương thì được đắc nguyện một cách linh hiển.
Tại Báo Ân Đường Kiêm Biên (Nam Vang), Đức Phạm Hộ pháp phò loan, Bát Nương giáng cơ cho bài Phật Mẫu Chơn Kinh để cúng Đức Phật Mẫu. Đây là một bài kinh vô cùng quan trọng của Đạo Cao Đài, cho biết quyền năng của Phật Mẫu, mà từ thuở xưa tới giờ chưa có bài kinh nào như vậy.
Bát Nương cùng Đức Cao Thượng Phẩm luân phiên giáng cơ dạy về Luật Tam Thể và Diêu Trì Cung, tạo thành một tài liệu học đạo rất quý báu.
Bát Nương giáng trần ở nước Trung Hoa vào thời nhà Tây Hán, có tên là Hớn Liên Bạch (họ là Hớn, tên là Liên Bạch có nghĩa là hoa sen trắng), sau đó lại giáng trần nơi nước Việt Nam, sanh vào nhà họ Hồ.
Do đó Bài thài hiến lễ Bát Nương khởi đầu bằng chữ HỒ HỚN là hai họ: Họ Hồ và họ Hớn, hoa sen trắng là Liên Bạch, tên Cô.
- Cửu Nương Phật: Tiền kiếp là Ngọc Vạn Công Chúa, con gái Chúa Nguyễn Phúc Nguyên, Bà lớn lên được gả cho vua Cao Miên, nhờ vậy, Bà tạo được mối giao hảo giữa Việt Miên qua nhiều thế hệ.
Cửu Nương cầm ống tiêu, có phận sự giác ngộ các chơn hồn bị đọa lạc nơi trần thế, tiếp dẫn các chơn hồn lên đến tầng trời Tạo Hoá Thiên, tầng thứ chín trong Cửu Trùng Thiên để bái kiến Đức Phật Mẫu.
Trong một kiếp giáng trần gần đây nhứt, Cửu Nương có tên là Cao Thị Khiết (Kiết), sanh năm Bính Thân (1895) tại Bạc Liêu, con của ông Đốc Phủ sứ Cao Minh Thạnh và bà Tào Thị Xúc. Cô là con gái út thứ 9, người anh ruột thứ 6 là ông Cao Triều Phát. Cô mất năm Canh Thân (1920) hưởng dương được 25 tuổi. Mộ của Cô vẫn còn tại Bạc Liêu, cách thị xã Bạc Liêu chừng hơn 2 cây số về hướng đi Vĩnh Châu. Mộ làm bằng đá xanh, rất kiên cố, xây giữa đồng ruộng, trong khu đất dành làm nghĩa trang của dòng họ Cao ở Bạc Liêu.
Chín vị Tiên Nương đều là những bậc anh thư, Thánh nữ đã tạo nhiều công đức cho nòi giống Việt. Ngày nay trên cõi Thiêng Liêng trong cửa Đạo Cao Đài chư vị nầy theo phò Đức Phật Mẫu, mỗi vị có sứ mạng riêng để độ dẫn nhân sanh về với Cha Mẹ trên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
 
Cho thấy Đạo Mẫu trong lòng văn minh của dân tộc Việt Nam, được Đạo Cao Đài điển chế thành hệ thống văn hiến, và Đức Phật Mẫu cùng Cửu Vị Tiên Nương được thờ phượng trong Điện Thờ Phật Mẫu. Ngoài ra mỗi phận Đạo địa phương đều có Thánh Thất, thờ phượng song song phụng sự Đức Chí Tôn "Ngọc Hoàng Thượng Đế", và Đức Phật Mẫu, cùng Cửu Vị Nương Phật.
Từ khi có Đạo Cao Đài (1925) thành hình hệ thống kinh điển văn minh đức tin phục vụ nhân loại.
* Viên Dung.