Sự thống nhất đất nước vào năm
1975 đã đặt ra nhiều thách thức cho chính quyền Cộng sản Việt Nam, đặc biệt
trong việc quản lý và tích hợp những cơ cấu xã hội đã tồn tại từ trước. Trong
bài viết này, chúng tôi phân tích những biến cố liên quan đến Đạo Cao Đài trong
giai đoạn 1975-1986, một giai đoạn mà những chính sách tôn giáo của nhà nước đã
tác động sâu rộng đến đời sống và hoạt động của tín đồ Cao Đài.
2 . Chính Sách
Quản Lý Tôn Giáo và Đề Xuống Đạo Cao Đài.
Sau năm 1975, nhà nước Cộng sản
Việt Nam đặt ra mục tiêu xã hội hoá và tích hợp hết thảy những tổ chức tôn giáo
vào một hệ thống quản lý chặt chẽ. Đạo Cao Đài, vốn là một trong những tôn giáo
có ảnh hưởng rộng lớn tại Nam Kỳ, đã trở thành một trong những đối tượng bị đàn
áp và giới hạn nghiêm ngặt.
Chính quyền Cộng sản đã thực hiện
chính sách quản lý tôn giáo với hai hướng chính:
- Thứ nhất, tổng kiểm soát hoạt
động tôn giáo, buộc các tổ chức tôn giáo phải đăng ký và hoạt động dưới sự giám
sát của nhà nước.
- Thứ hai, tiến hành các biện
pháp hạn chế ảnh hưởng của đạo Cao Đài, báo gồm tế thu tài sản, giảm bớt quyền
lực của giáo hội, và kiểm soát những đối tượng chủ chốt.
3 . Đàn Áp và
Kiểm Soát Hoạt Động Tôn Giáo.
Nhà nước đã tiến hành các biện
pháp giới hạn hoạt động tôn giáo của Cao Đài bằng nhiều hình thức, bao gồm việc
giám sát gắt gao các chức sắc, tuyên truyền chính sách nhằm chia rẽ các chi
phái Cao Đài, và lợi dụng một số chức sắc để tác động đến quá trình phân hoá
nội bộ.
Bên cạnh đó, các chi phái Cao Đài tại miền Trung và
miền Bắc đã bị đặt dưới sự giám sát chặt chẽ, đặc biệt là tại Cà Mau, Đà Nẵng
và Hà Nội.
4 . Kết Luận.
Trong giai đoạn 1975-1986, Đạo Cao Đài đã trải qua một
giai đoạn biến động lớn, đặc biệt là dưới áp lực quản lý và điều chỉnh từ phía
nhà nước. Các chính sách kiềm soát và chia rẽ đã góp phần làm suy giảm ảnh
hưởng của Cao Đài đối với xã hội Việt Nam.
* Hiền Tài/Huỳnh Tâm.