Khi Đạo mới khai
vào năm 1926, Đức Trạng Trình NGUYỄN BỈNH KHIÊM giáng cơ xưng danh hiệu là
THANH SƠN ĐẠO SĨ.
Đức Victor Hugo (Nguyệt Tâm Chơn Nhơn)
và Đức Tôn Văn (Tôn Trung Sơn Chơn Nhơn) cũng ở đó.
Năm 1926, dưới thời Pháp thuộc, là năm
Đạo Cao Đài xuất hiện, năm mà hầu hết những nhà chí sĩ Việt Nam giàu lòng ái
quốc ngấm ngầm hoặc công khai tranh thủ cho nền độc lập và chủ quyền của quốc
gia, đại khái như các Cụ: Sào Nam, Tây Hồ, Nguyễn An Ninh, Dương Bá Trạc, Cường
Để, Tạ Thu Thâu,v.v... Kẻ lo lập phong trào nầy, người lo lập đảng khác, có kẻ
lại lo chủ trương cổ xúy phong trào mở mang dân trí. Bằng tất cả mọi phương
tiện, hoàn cảnh, kẻ dụng văn chương, người dùng võ lực, những vị ấy ngày nay
đều đã đi vào lịch sử tốt đẹp của nước Việt Nam, một quốc gia nhỏ bé nhưng đã
có trên bốn ngàn năm văn hiến.
Đạo Cao Đài là Thiên Đạo mà cũng là Quốc
Đạo vì nó được khai sanh tại nước Việt Nam, chớ không phải là một Đạo giáo được
du nhập từ nước ngoài. Tuy là Thiên Đạo, nhưng Đạo Cao Đài vẫn có những bộ phận
Thế Đạo để lo trả nghĩa cho Đời, giúp hay cho Đạo. Mấy ngàn Thánh Tử Đạo hiện
được thờ nơi Bát Quái Đài Tòa Thánh là một chứng minh cụ thể cho vai trò Thế
Đạo hữu hình. Để giúp thêm năng lực cho cơ chuyển thế hữu hình, Bạch Vân Động
đã đóng vai trò quan trọng về mặt vô hình, nơi đó Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ là
Chưởng Quản.
Vì lẽ ấy, nên khai giáng cơ năm 1926,
Ngài đã ban cho mười bài thi theo lối Thập Thủ Liên Huờn, mục đích để kêu gọi
quốc hồn và kêu gọi người Nam tỉnh mộng, để tự mình cổi ách lệ nô. Mười bài thi
ấy được hầu hết các Thi sĩ thời bấy giờ ca tụng, và chính Đức Lục Nương, Thất
Nương, Bát Nương nơi Diêu Trì Cung cũng giáng cơ bằng ba bài thi để khen tặng
Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ.
Xin trích đăng các bài thi ấy dưới đây
để cống hiến cho các thi hữu hoặc những vị nào có tâm hồn mến chuộng thi văn...
THẬP THỦ LIÊN HUỜN
Âm dương tuy cách cũng trời chung,
Thấy trái nên đây mới tỏ cùng.
Thắt dạ thuyền xưa không đậu bến,
Đau lòng hạc cũ chẳng về tùng.
Cúi đầu đành chịu thân trăm tuổi,
Ngước mặt ngơ trông bậc chín trùng.
Mạnh yếu há ngồi cam chịu vậy
Hay chi cá chậu với chim lồng.
---
Chim lồng bao thuở lại non xanh,
Mỏi mắt trông vơi chốn thoát mình.
Dựng nước chẳng ai tài tướng lược,
Liều mình thiếu kẻ đấng hùng anh.
Vầy thuyền chi sợ cơn giông tố,
Hiệp chủng còn hơn cuộc chiến tranh.
Thìn dạ chờ châu về hiệp phố,
Vì ta sự nghiệp mới tan tành,
---
Tan tành nhớ đến
gánh giang san,
Lòn cúi thương
dân lắm buộc ràng.
Phú quý mồi câu
con hạc lánh,
Đỉnh chung gió
thổi đám mây tàn.
Đợi thờ toan
mượn cần câu Lữ,
Dựng nghiệp tua
nhờ mặt lưới Thang.
Ly loạn gặp đời,
đời muốn chán,
Công danh phủi
sạch hưởng thanh nhàn.
---
Thanh nhàn ngày
tháng lại Tiên gia,
Trị loạn hằng
xem thế nước nhà
Bể hoạn dập dồn thương
bấy trẻ,
Thành sầu chất
ngất thảm cho già.
Bạc đầu non chịu
lằn sương nhuộm,
Nhăn mặt nước
chờ trận gió qua.
Than ôi mối dây
tua nắm chặt,
Chít chiu ấy
cũng một bầy gà.
---
Bầy gà mất mẹ
kiếm bơ vơ,
Yếu đuối biết ai
để cậy nhờ.
Nắng hạn trông
mưa trông mỏi mắt,
Đắng cay mộ nước
mộ lòng chờ.
Ngoài khua tiếng
giặc, trong khua nịnh,
Võ thiếu binh
nhung, quốc thiếu cờ.
Trí chúa tôi
hiền không gặp chúa,
Nào người gánh
nỗi mối xa thơ.
---
Xa thơ hầu ngã
nước nhà nghiêng,
Ai giữ phong
cương đặng vững bền?
Đắp luỹ Cổ Loa
chưa thấy mặt,
Lấp hồ Hoàn Kiếm
bấy nhiêu tên.
Thăng Long bao
thuở nâng hùng khí.
Gia Định tự
nhiên chấp ấn quyền.
Sông núi dật dờ
chờ tạo khách,
Hoá sông nên
giậu núi nên thiền .
---
Nên thiền thì
trước lập nên dân,
Chín bệ xem qua
chẳng trí quân.
Ích nước xủ tay
khoe đẹp áo,
Lợi nhà vỗ bụng
hưởng tròn thân.
Nam Giao vắng vẻ
đường cung kiếm,
Văn Miếu khô
khan ngọn bút thần.
Danh vọng ru hồn
quên thổ võ,
Thẹn nòi bộc
lại, mộ đai cân.
---
Đai cân đã có vẻ
chi chưa?
Hay phận tù lao
kiếp sống thừa.
Đạp đất gập
ghình bầy trẻ dại,
Ngừa thời điên
đảo trí già xưa.
Ngồi hang thương
kẻ mang da chó,
Ngự điện ghét
quân đội lốt lừa.
Cái nhục giống
nòi sao chẳng rửa?
Xoi hang mạch
nước ý chưa vừa.
---
Chưa vừa mộng mị
với tây tà,
Dụ xác vong hồn
dựa xác ma.
Tiêu huỷ thân
cây làn lửa táp,
Tan tành hình
nộm trận giông qua.
Rước voi phá mã
đào lăng miếu,
Thả rắn xua ong
nhiễu điện toà.
Đổ luỵ hỏi người
sao chẳng nhớ?
Ngọn rau tấc đất
nước nhà ta.
---
Nước nhà ta có tiếng anh phong,
Vẻ đẹp trời đông sắc Lạc Hồng.
Nam Hải trổ
nhiều trang Thánh đức,
Giao Châu sanh
lắm bực Thư hùng.
Tính trung lửa
thét thành Bình Định,
Khí liệt gươm đề
tỉnh Quảng Đông.
Văn hiến bốn
ngàn năm có sẵn
Chi cầu dị chủng
đến dâng công.
* THANH SƠN ĐẠO
SĨ
* * *
BA VỊ TIÊN NƯƠNG
TẶNG TÀI THANH SƠN ĐẠO SĨ
Hay Thanh Sơn!
giỏi Thanh Sơn!
Trung nghĩa về
Tiên cũng ngậm hờn.
Cẩm Tú thêu oan
thành khí giới;
Văn chương khảo
tội hoá công quờn .
Rung chuông tỉnh
thế ba kỳ thức,
Hồi trống truy
hồn bá tánh khôn.
Trị loạn sấn tay
nâng vạc ngã,
Anh linh muôn kiếp nước Nam đồn.
* LỤC NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG
Tài Thanh Sơn! Trí Thanh Sơn!
Câu văn tuyệt bút vẽ nên hờn.
Giục lòng chí sĩ chưa vừa sức,
Múa viết thần tiên đủ chấp quờn.
Dệt thảm lê dân trời cám cảnh,
Khêu sầu xã tắc đất kinh hồn.
Nắn nhồi trí huệ thành binh khí,
Rèn chất anh thư đắp lũy đồn.
* THẤT NƯƠNG
DIÊU TRÌ CUNG
Trung Thanh Sơn!
Nghĩa Thanh Sơn!
Bởi tại đâu ân
oán nuốt hờn.
Nát mật khó xem
nhà vắng chủ,
Bầm gan há chịu
nước không quờn.
Câu văn ái chủng
gầy dân khí,
Tiếng sấm ưu
hương định quốc hồn.
Lập chí ôn nhu
là đắp luỹ,
Nung lòng đạo đức ấy xây dồn.