VƯỜN HOA ĐẠI ĐẠO. * BẢN THÔNG TIN 12.

CƠ QUAN PHÁT THANH PHỔ THÔNG GIÁO LÝ. RA NGÀY 10 THÁNG 8 CANH TUẤT (10-9-1970)
Khi Đạo mới khai vào năm 1926, Đức Trạng Trình NGUYỄN BỈNH KHIÊM giáng cơ xưng danh hiệu là THANH SƠN ĐẠO SĨ.
Ngài cho biết Ngài là Động chủ Bạch Vân Động. Theo Thánh giáo của các Đấng thì Bạch Vân Động là nơi xuất phát những chơn linh xuống trần giữ vai tuồng chuyển thế.
Đức Victor Hugo (Nguyệt Tâm Chơn Nhơn) và Đức Tôn Văn (Tôn Trung Sơn Chơn Nhơn) cũng ở đó.
Năm 1926, dưới thời Pháp thuộc, là năm Đạo Cao Đài xuất hiện, năm mà hầu hết những nhà chí sĩ Việt Nam giàu lòng ái quốc ngấm ngầm hoặc công khai tranh thủ cho nền độc lập và chủ quyền của quốc gia, đại khái như các Cụ: Sào Nam, Tây Hồ, Nguyễn An Ninh, Dương Bá Trạc, Cường Để, Tạ Thu Thâu,v.v... Kẻ lo lập phong trào nầy, người lo lập đảng khác, có kẻ lại lo chủ trương cổ xúy phong trào mở mang dân trí. Bằng tất cả mọi phương tiện, hoàn cảnh, kẻ dụng văn chương, người dùng võ lực, những vị ấy ngày nay đều đã đi vào lịch sử tốt đẹp của nước Việt Nam, một quốc gia nhỏ bé nhưng đã có trên bốn ngàn năm văn hiến.

Điện Thờ Đức Trạng Trình NGUYỄN BỈNH KHIÊM, hiệu THANH SƠN ĐẠO SĨ.


Đạo Cao Đài là Thiên Đạo mà cũng là Quốc Đạo vì nó được khai sanh tại nước Việt Nam, chớ không phải là một Đạo giáo được du nhập từ nước ngoài. Tuy là Thiên Đạo, nhưng Đạo Cao Đài vẫn có những bộ phận Thế Đạo để lo trả nghĩa cho Đời, giúp hay cho Đạo. Mấy ngàn Thánh Tử Đạo hiện được thờ nơi Bát Quái Đài Tòa Thánh là một chứng minh cụ thể cho vai trò Thế Đạo hữu hình. Để giúp thêm năng lực cho cơ chuyển thế hữu hình, Bạch Vân Động đã đóng vai trò quan trọng về mặt vô hình, nơi đó Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ là Chưởng Quản.
Vì lẽ ấy, nên khai giáng cơ năm 1926, Ngài đã ban cho mười bài thi theo lối Thập Thủ Liên Huờn, mục đích để kêu gọi quốc hồn và kêu gọi người Nam tỉnh mộng, để tự mình cổi ách lệ nô. Mười bài thi ấy được hầu hết các Thi sĩ thời bấy giờ ca tụng, và chính Đức Lục Nương, Thất Nương, Bát Nương nơi Diêu Trì Cung cũng giáng cơ bằng ba bài thi để khen tặng Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ.
Xin trích đăng các bài thi ấy dưới đây để cống hiến cho các thi hữu hoặc những vị nào có tâm hồn mến chuộng thi văn...
THẬP THỦ LIÊN HUỜN
Âm dương tuy cách cũng trời chung,
Thấy trái nên đây mới tỏ cùng.
Thắt dạ thuyền xưa không đậu bến,
Đau lòng hạc cũ chẳng về tùng.
Cúi đầu đành chịu thân trăm tuổi,
Ngước mặt ngơ trông bậc chín trùng.
Mạnh yếu há ngồi cam chịu vậy
Hay chi cá chậu với chim lồng.
---
Chim lồng bao thuở lại non xanh,
Mỏi mắt trông vơi chốn thoát mình.
Dựng nước chẳng ai tài tướng lược,
Liều mình thiếu kẻ đấng hùng anh.
Vầy thuyền chi sợ cơn giông tố,
Hiệp chủng còn hơn cuộc chiến tranh.
Thìn dạ chờ châu về hiệp phố,
Vì ta sự nghiệp mới tan tành,
---
Tan tành nhớ đến gánh giang san,
Lòn cúi thương dân lắm buộc ràng.
Phú quý mồi câu con hạc lánh,
Đỉnh chung gió thổi đám mây tàn.
Đợi thờ toan mượn cần câu Lữ,
Dựng nghiệp tua nhờ mặt lưới Thang.
Ly loạn gặp đời, đời muốn chán,
Công danh phủi sạch hưởng thanh nhàn.
---
Thanh nhàn ngày tháng lại Tiên gia,
Trị loạn hằng xem thế nước nhà
Bể hoạn dập dồn thương bấy trẻ,
Thành sầu chất ngất thảm cho già.
Bạc đầu non chịu lằn sương nhuộm,
Nhăn mặt nước chờ trận gió qua.
Than ôi mối dây tua nắm chặt,
Chít chiu ấy cũng một bầy gà.
---
Bầy gà mất mẹ kiếm bơ vơ,
Yếu đuối biết ai để cậy nhờ.
Nắng hạn trông mưa trông mỏi mắt,
Đắng cay mộ nước mộ lòng chờ.
Ngoài khua tiếng giặc, trong khua nịnh,
Võ thiếu binh nhung, quốc thiếu cờ.
Trí chúa tôi hiền không gặp chúa,
Nào người gánh nỗi mối xa thơ.
---
Xa thơ hầu ngã nước nhà nghiêng,
Ai giữ phong cương đặng vững bền?
Đắp luỹ Cổ Loa chưa thấy mặt,
Lấp hồ Hoàn Kiếm bấy nhiêu tên.
Thăng Long bao thuở nâng hùng khí.
Gia Định tự nhiên chấp ấn quyền.
Sông núi dật dờ chờ tạo khách,
Hoá sông nên giậu núi nên thiền .
---
Nên thiền thì trước lập nên dân,
Chín bệ xem qua chẳng trí quân.
Ích nước xủ tay khoe đẹp áo,
Lợi nhà vỗ bụng hưởng tròn thân.
Nam Giao vắng vẻ đường cung kiếm,
Văn Miếu khô khan ngọn bút thần.
Danh vọng ru hồn quên thổ võ,
Thẹn nòi bộc lại, mộ đai cân.
---
Đai cân đã có vẻ chi chưa?
Hay phận tù lao kiếp sống thừa.
Đạp đất gập ghình bầy trẻ dại,
Ngừa thời điên đảo trí già xưa.
Ngồi hang thương kẻ mang da chó,
Ngự điện ghét quân đội lốt lừa.
Cái nhục giống nòi sao chẳng rửa?
Xoi hang mạch nước ý chưa vừa.
---
Chưa vừa mộng mị với tây tà,
Dụ xác vong hồn dựa xác ma.
Tiêu huỷ thân cây làn lửa táp,
Tan tành hình nộm trận giông qua.
Rước voi phá mã đào lăng miếu,
Thả rắn xua ong nhiễu điện toà.
Đổ luỵ hỏi người sao chẳng nhớ?
Ngọn rau tấc đất nước nhà ta.
---
Nước nhà ta có tiếng anh phong,
Vẻ đẹp trời đông sắc Lạc Hồng.
Nam Hải trổ nhiều trang Thánh đức,
Giao Châu sanh lắm bực Thư hùng.
Tính trung lửa thét thành Bình Định,
Khí liệt gươm đề tỉnh Quảng Đông.
Văn hiến bốn ngàn năm có sẵn
Chi cầu dị chủng đến dâng công.
* THANH SƠN ĐẠO SĨ
* * *
BA VỊ TIÊN NƯƠNG TẶNG TÀI THANH SƠN ĐẠO SĨ
Hay Thanh Sơn! giỏi Thanh Sơn!
Trung nghĩa về Tiên cũng ngậm hờn.
Cẩm Tú thêu oan thành khí giới;
Văn chương khảo tội hoá công quờn .
Rung chuông tỉnh thế ba kỳ thức,
Hồi trống truy hồn bá tánh khôn.
Trị loạn sấn tay nâng vạc ngã,
Anh linh muôn kiếp nước Nam đồn.
* LỤC NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG
Tài Thanh Sơn! Trí Thanh Sơn!
Câu văn tuyệt bút vẽ nên hờn.
Giục lòng chí sĩ chưa vừa sức,
Múa viết thần tiên đủ chấp quờn.
Dệt thảm lê dân trời cám cảnh,
Khêu sầu xã tắc đất kinh hồn.
Nắn nhồi trí huệ thành binh khí,
Rèn chất anh thư đắp lũy đồn.
* THẤT NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG
Trung Thanh Sơn! Nghĩa Thanh Sơn!
Bởi tại đâu ân oán nuốt hờn.
Nát mật khó xem nhà vắng chủ,
Bầm gan há chịu nước không quờn.
Câu văn ái chủng gầy dân khí,
Tiếng sấm ưu hương định quốc hồn.
Lập chí ôn nhu là đắp luỹ,
Nung lòng đạo đức ấy xây dồn.