* Kính thưa Quý
Hiền thân hữu, cũng khá lâu rồi,tiện muội không viết về đề tài tôn giáo, thật
ra lòng luôn canh cánh về những hiện hữu của sự thay đổi đạo đức, cách sống mà
người ta đang sống trong một xã hội muôn mặt luôn biến động.
Với tâm thể của người
tín đồ Cao Đài nhập thế, tiện muội giữ gìn tâm trong sáng theo tôn chỉ của ĐẠI
ĐẠO TAM KỲ PHỐ ĐỘ, ĐỨC CHÍ TÔN khi dùng quyền pháp vô vi hạ thế để mở ra một
con đường giải thoát cho nhân loại vào thời hạ ngươn. Lần thứ ba này NGÀI đã nói không phải lần này NGÀI mở một Đạo mới thêm
vào nhiều Đạo đã có sẵn ở thế gian, mà NGÀI chỉ ra tất cả các tôn giáo đã có
mặt đều chung một gốc và nay NGÀI đưa ra một Chân Lý để nhân loại không còn
chia rẽ. Vì mỗi thời kỳ chuyển đổi của thế giới thì phải có một ĐẤNG CỨU THẾ ra đời
để hướng dẫn con người vào đường thiện lành tìm con đường hạnh phúc vĩnh cửu. "Nhất bản tán vạn thù và ngày nay quy lại", Vạn thù quy nhất
bản".
Trong lần mở đạo lần
thứ nhất vào thời Thượng Ngươn của quả địa cầu này, ĐỨC THƯỢNG ĐẾ đưa PHẬT
xuống thế là Đức NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT gọi là Nhứt kỳ phổ độ. Vào thời kỳ đó con người còn giữ được tâm thiện lành tạo nên đời Thánh
đức. Sang đến thời Trung Ngươn là Ngươn tranh đấu con người đã mất dần Thiên
tánh, lòng người ly tán chia rẻ để tranh dành quyền lực.
Lúc
này Đấng Thượng Đế lại mở Đạo lần thứ hai gọi là Nhị Kỳ Phổ Độ, các Đấng Tiên,
Thành, Phật, xuống trần dạy Đạo hầu cứu vãn con người trở về với Đạo, với Phật
tánh, với Thiên lý. Trải qua ngàn năm các triết lý trở thành phàm hóa, mất dần
tính Nguyên khởi, con người theo đà tiến bộ vật chất hữu hình nhờ sự thông minh
hơn các loại động vật khác trên địa cầu 68 này nên nảy sinh lòng tự cao kiêu
ngạo. Bên cạnh sự phát triển vật chất phục vụ tiện ích cho con người là một tỷ
lệ nghịch với đạo đức. Đến đây là thời kỳ tận diệt, là thời hạ ngươn tam chuyển
để chuẩn bị vào thời Thượng Ngươn tứ chuyển theo sự vận hành của vũ trụ, "Nhược
thiệt nhược hư, bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa " hay "thị không thị
sắc, vô vi nhi dịch sử quần linh". Nghĩa là sự xoay chuyển vận hành của vũ
trụ theo một định luật khởi đầu, hưng thịnh và hoại diệt mà không cần phải
tuyên bố của vũ trụ: xây dựng,tranh đấu rồi tận diệt. Để cứu vớt nhân loại,
một lần nữa Đức Thượng Đế hạ phàm mở ra một đại ân xá kỳ ba gọi là ĐẠI ĐẠO TAM
KỲ PHỐ ĐỘ, không dùng xác phàm để xuống thế như hai lần phổ độ trước, mà qua sự
kết nối linh thiêng giữa vô vi của vũ trụ với con người, NGÀI đem chính lời Đại
nguyện của NGÀI, bỏ ngôi Thái Cực để xuống trần, bằng tấm lòng đại bi của người
CHA, NGÀI dạy Đạo bằng cơ bút huyền diệu qua những đồng tử mộ Đạo tìm đường
giải thoát sau khi đã chán chê cảnh náo nhiệt của hồng trần. Từng bước các vị tiền bối cách đây 100 năm đã được ĐỨC CHÍ TÔN chỉ dạy
tạo dựng một nền Đạo. Gầy dựng cơ đồ cứu rỗi nhơn sanh trở về bên NGÀI.
Do vậy, lần kỳ ba này
NGÀI đã đưa ra cách giải thoát qua từng bước, vì NGÀI hiểu con cái của NGÀI
chưa thể một bước thành Tiên, thành Phật. Trái
với hai kỳ phổ độ lần trước, ĐỨC CHÍ TÔN đưa con người trở về Phật trước, rồi
Tiên, rồi Thánh.Nay sang thời hạ ngươn,con người nhiều tội lỗi, nghiệp căn
chồng chất từ muôn ngàn kiếp không thể nào xóa bỏ được, nên NGÀI đã ân xá đưa
con cái của NGÀI trở về từng giai đoạn tu dưỡng. Đó là Nhân đạo trước
hết, phải trở thành người đoan chính, người hiền để xây dựng một xã hội thái
bình an lạc trước, phải lập công bồi đức bằng con đường Nhân Đạo để từng bước
đi vào Tiên Đạo, Thiên Đạo giải thoát.
Phải học Nhân Đạo gọi
là thời Nho Tông chuyển thế.
Với sứ mạng dùng Nhân
Đạo là lấy Nho giáo làm bước khởi đầu trên đường tu tập, nên người tín đồ Cao
Đài là môn đệ của ĐỨC CHÍ TÔN phải nắm vững triết lý Nho giáo. Tuy nhiên không
còn cứng ngắt giữ tam cương "Quân, Sư, Phụ" như xưa.
Một cách nhìn khác trong thời kỳ này về tam cương khi hiểu biết về Nhân Sinh
Quan của Cao Đài. Con người đều bình đẳng trước THƯỢNG ĐẾ
vì ai cũng có điểm Linh Quang chiết từ khối Đại Linh Quang của THƯỢNG ĐẾ và mỗi
người có phận sự riêng của mình khi xuống thế lập công để hoàn thành sứ mạng. Đối
với tín đồ Cao Đài chữ hiếu được gọi là vi tiên trong Nhân Đạo, và lòng tôn sư
trọng đạo nghĩa là nhớ ơn người thầy dạy dỗ cho mình biết đạo lý, biết Chánh,
Tà, biết khoa học vũ trụ bao la, v.v... những tri thức được thầy giáo truyền
dạy để làm nền cho sự phát triển nhân cách phục vụ xã hội. Còn việc trung với
vua gọi là Quân không phải khư khư ôm lấy một con người cai trị như câu nói
"Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung" mà được thay đổi bằng sự yêu
nước thương dân, Tổ Quốc là điều thiêng liêng mà làm người sống trong mảnh đất
của tổ tiên phải nhớ nguồn cội của mình.
Ngũ
Thường còn gọi là Ngũ luân là 5 điều mà người cần phải học để biết và thực
hiện. Đó là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.Dùng Nho giáo để chuyển thế có nghĩa là
lấy đạo Nho để sống và thực hành theo Ngũ luân để chuyển từ bỉ sang thái, từ xã
hội hỗn loạn đến một trật tự thế giới an lạc, công bằng thạnh trị.
*
NHÂN: là thể hiện sự tương giao giữa người với vạn linh với bạn đồng sanh bằng
tình thương đùm bọc nhau, chia sớt qua tính lương thiện, độ lượng, vị tha, phát
xuất từ lương tâm mà không tính toán, đó là sự thăng hoa của tính nhân bản
trong cách tương giao làm cho xã hội được hạnh phúc.
*
NGHĨA: đó là lẽ phải vì sự công bằng lợi ích chung của xã hội, thường khi nhân
và nghĩa đi đôi với nhau. Chữ nghĩa bao gồm lòng biết ơn, tình thương vô vị
lợi, sự tri ân với những người đã đến với mình trong cuộc sống như nghĩa anh
em, tình nghĩa phu thê, nghĩa bạn bè, v.v... Lúc nguy biến hết sức giúp đỡ nhau
mà không bỏ đi đều do cái nghĩa trong đó.
"Hễ
biết nghĩa thọ ơn chẳng bội.
Giúp cho người chớ vội
khoe ra"
Hoặc " Ơn trợ
giúp khá lo đền báo
Giữ vẹn tròn nghĩa đạo
với đời".
(Kinh
sám hối của Cao Đài)
Ngoài
ra vì nghĩa vụ với đất nước, tổ tiên, con người phải gánh lấy trách nhiệm bảo
vệ Tổ Quốc, xây dựng đất nước, gạt bỏ tính toán vị kỷ cá nhân. Đã thọ ơn tấc đất ngọn
rau, thọ ân nhân quần xã hội, cái ơn này là nghĩa vụ phải
trả theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ Quốc. "Làm
người Nhân Nghĩa giữ tròn,muôn năm bóng khuất tiếng còn bay xa" (Kinh sám
hối của Cao Đài giáo).
* LỄ: lễ trong Nho
giáo thực hiện theo tập quán lễ nghi và bao gồm những phép tắc xử thế phù hợp
với lòng người, thuận theo chữ Hòa trong trật tự, liên quan đến thứ bậc cao
thấp trong gia đình ra đến ngoài xã hội. Lễ nghi tạo ra thứ bậc trong xã hội
nhưng vẫn giữ phẩm giá của con người. Người dưới người nhỏ dùng lễ để tôn trọng
người trên, và người trên hay bậc trưởng thượng lão bối dùng lễ để đối đãi với
người dưới đó là tạo ra Hòa Ái. Thực hành lễ để tu
dưỡng tánh tình, trọng người cũng là trọng mình. Lễ không mang tính
cách quy lụy nịnh bợ, mà đó là khẳng định vai trò của mình, giữ được phẩm giá
của mình qua cách đối đãi với nhau. Nhờ Lễ người ta phân biệt kẻ lớn người nhỏ
có quy định đối xử khác nhau tạo thành một trật tự, từ đó không có sự hiềm
khích,nhờ đó có sự chính danh.
Lấy Lễ để kềm chế lòng
dục, con người thường bị dục vọng lôi kéo, có lễ sẽ ngăn chặn chế giảm lòng
dục, Lễ là để ngăn ngừa tội lỗi chưa xảy ra. Luật là để trừng phạt tội lỗi đã
xảy ra rồi. Lễ chú trọng về mặt giáo dục,ngăn chặn tội lỗi khởi niệm trong ý
thức, dạy người ta điều gì làm và điều gì không được làm. Còn pháp luật để
trừng trị. Nếu không có lễ thì xã hội cứ mãi chạy theo dùng luật để trị tội sẽ
trở thành trường hỗn loan thiện, ác và khó thể có một xã hội thái bình được.
* TRÍ: Trong Nho giáo
Trí là sự học hỏi để phân biệt Chánh, Tà, phải quấy. Học cho đến tận cùng, hiểu
được lẽ nhất quán của Trời, Đất, gọi là cách vật trí tri, học để tự chứng tự
nghiệm. Nho giáo dạy chữ trí là dùng sự hiểu biết của mình để hoàn thiện nhân
cách "khắc kỷ phục lễ" tu thân sửa tánh. Tìm trong Tứ thư Ngũ kinh của Nho giáo chúng ta không thấy Đức Khổng Tử
hoặc các bậc Nho gia như Mạnh Tử,Tử Lộ nào nhắc đến Trí Tuệ Bát Nhã hay Niết
Bàn,hay Hư Vô tịch diệt. Nhưng lại nhấn mạnh đến phép tu thân để trở thành
người quân tử. Không phải để trở thành nhà chính trị lỗi lạc với mong ước "Tề
gia, Trị Quốc, Bình thiên hạ" , mà cốt lõi dùng Trí để tu thân, sửa tánh
nên hiền trở thành Hiền nhân quân tử hay còn gọi là Hiền tài là nguyên khí của
quốc gia.Ngoài ra Trí trong Nho giáo là dùng sự hiểu biết của mình truyền lại
cho người, học hỏi chung quanh với tính khiêm nhường. Nếu không có trí thì
nhân dễ đi sai lệch mù quáng. Từ đó Trí trong Nho giáo rất quan trọng để hoàn
thiện nhân cách của một người.
* TÍN: Nho giáo đặt
chữ Tín trong giao tiếp rất quan trọng, Tín có nghĩa là sự tin tưởng lẫn nhau,
là phép tắc tương giao người với người thể hiện sự chung thủy trước sau như một. Nói và làm phải quy
nhứt. Tín là lòng thành thật đối xử với nhau, ngay cả với bản thân
mình cũng phải giữ lời hứa với mình để trau giồi cái đức gọi là tu đức.
Trong lần mở đạo kỳ ba
này, ĐỨC THƯỢNG ĐẾ đã hạ trần bằng huyền diệu thông công với người phàm qua
năng lượng mầu nhiệm vô vi để mở Đạo tại một đất nước có nền tảng Tam Giáo: Nho
Lão, Phật cùng song hành trong tâm linh của người Việt, theo giòng lịch sử mở
đất của tộc Việt. Một giống dân đã nhiều lần bị nô lệ áp bức từ các giống dân
khác, nhưng vẫn giữ được tính cách riêng của tộc Việt. Do vậy dù trải qua nhiều
thăng trầm của lịch sử giữ nước và mở nước về phía Nam, người Việt sống cùng
với nhiều sắc dân khác, hòa với những nền văn hóa hay tôn giáo khác nhưng đã
biết chắt lọc những tinh hoa của thuyết tâm linh khác nhau tạo thành một triết
lý sống riêng cho tộc Việt. Trong đó Nho giáo giữ một phần quan trọng trong
cách hành xử giữa người với người. Và từ đó ĐỨC CHÍ TÔN đã dùng Nho giáo làm
căn bản gọi là NHO TÔNG CHUYỂN THẾ vì NGÀI biết rằng nhơn loại cần phải đi từng
bước để tấn hóa theo cách Nhân Sinh Quan của Cao Đài là "Bát hồn vận
chuyển hóa thành chúng sanh" hay theo thuật ngữ của Cao Đài gọi là về cựu
vị nơi Bạch Ngọc Kinh, "Tiên tu nhân đạo, Nhân đạo bất tu, Tiên đạo viễn
lũy".
Khi
ĐỨC CHÍ TÔN khai mở Đạo, NGÀI đã tá danh một cách khiêm tốn là "CAO ĐÀI
TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT", điều đó chứng tỏ NGÀI dạy khiêm hạ là cần thiết
trong cốt cách cư xử của con người và đó là cách tu thân trước hết mà đạo Nho
giảng dạy. Lấy Nho học để chuyển thế là dùng Nhân Đạo làm căn bản để cải dữ ra hiền,
không hoàn thành Nhân Đạo thì không thể bước tiếp lên các phẩm vị cao hơn là
Thần, Thánh, Tiên, Phật, được.
* Nhân Đạo cần có:
nhân ái, nhân nghĩa, nhân từ, nhân nhượng, nhân văn, nhân hậu trong phép xử thế
đối với vạn linh. Đó là nguyên tắc sống đầu tiên của người tín đồ Cao Đài trên
con đường tu thân. Bởi dùng NHO TÔNG CHUYỂN THẾ nên bước đường tu tập của Cao
Đài là nhập thế để trải qua tùng khổ, thọ khổ là cộng khổ
với nhơn sanh, cùng thọ khổ để thương và hiểu, tìm cách cứu khổ cho vạn linh,
cứu khổ đó là đã bước vào hàng Thánh nhơn để tiếp tục thoát khổ, không còn giữ
lại tham, sân, si, không còn chấp ngã để bước vào đường giải khổ. Lúc
đó đã đến lúc vào Thiên Đạo giải thoát.
Với vai trò đưa nhân
loại đến thế giới đại đồng gọi là Thế Đạo bằng đường Nhân Đạo để kiến tạo một
thế gian không chiến tranh, con người sống với nhau bằng tình thương yêu hòa ái
như anh em một cha. Lúc đó không còn ranh giới của chia rẽ
hận thù, sự thương yêu là chìa khóa mở cửa Bạch Ngọc Kinh, một thế giới hoan
lạc thái bình. Như vậy hoàn thành sứ mạng chuyển thế từ bỉ cực sang thái lai. Điều mong
mỏi này là tâm nguyện của người tín đồ Cao Đài trước khi mong mình xuất thế
gian hưởng thú bồng lai tiên cảnh.
* Kính thưa Quý Hiền
thân hữu, bài viết đến đây đã dài lắm rồi, sợ rằng mất thời gian
quý báu của Quý Hiền, tiện muội muội xin thứ lỗi. Vi nhiều lời thô thiển còn thiếu sót khi nói về một triết học đã được
xây dựng và trải qua hàng ngàn năm truyền qua hầu hết các nước Phương Đông,
tiện muội cúi đầu xin tạ tội với Đức Thánh Khổng Thánh Tiên Sư hưng Nho thạnh
thế Thiên Tôn, và Quý Hiền lượng thứ cho tiện muội. Kính chúc Quý Hiền bước vào
tháng 2 âm lịch với một tâm thế an nhiên dù ngoài kia thế gian đầy biến động
thị phi, trong một tinh thần NHO TÔNG CHUYỂN THẾ. KÍNH THÂN.
* Lệ Thị Ngọc Vân.