Kinh NHO GIÁO KHỔNG THÁNH
Chí Tâm Qui Mạng Lễ.
Giải nghĩa.
Kinh:
Quế hương nội địện,
Văn Thỉ thượng cung,
Cửu thập ngũ hồi,
Chưởng thiện quả ư thi thơ
chi phố.
Bá thiên vạn hóa,
Bồi quế thọ ư âm-chất chi
điền.
Tự lôi trử bính, linh ư
phụng lãnh,
Chí như ý từ, tường ư ngao
trụ,
Khai nhơn tâm, tất bổn ư
đốc thân chi hiếu.
Thọ quốc mạch, ư trí chúa
chi trung,
Ứng mộng bảo sanh, thùy từ
mẫn khổ.
Đại Nhơn, Đại Hiếu, Đại
Thánh, Đại Từ.
Thần văn, Thánh võ, Hiếu
Đức, Trung Nhơn
Vương tân sách phụ,
Nho tông khai hóa
Văn Tuyên Tư Lộc,
Hoằng nhơn Đế quân,
Trừng chơn chánh quang,
Bửu Quang Từ tế Thiên Tôn.
- Ở trong
Điện Quế Hương, phía trên hết là Cung Vân Thỉ, nơi thường ngự của Đức Khổng Tử.
-
95 lần giáng sanh xuống trần rồi trở về.
- Gieo
trái lành nơi vườn văn chương thi phú.
- Trăm
ngàn muôn lần biến hóa, vun trồng cây quế nơi ruộng phước đức.
- Văn tự
chế thành thì có sấm nổ, văn tự như có chứa ngọn lửa để soi sáng và ghi chép
kiến thức, kinh nghiệm của người xưa, nên linh như chim phụng trên núi.
- Đến như
cái ý tưởng lành biết thương người, tốt đẹp vững vàng như núi ngao trụ,
- Sự khai
mở cái tâm con người ắt hẳn gốc ở tại sự hết lòng hiếu thảo với cha mẹ.
- Sự vững
bền quốc gia ắt hẳn trước tiên ở tại hết lòng trung với nước.
- Đức
Khổng Tử có lòng nhơn-từ, thương người khổ nạn, nên thường chiêm bao thấy ông
Châu Công đến chỉ dạy nhiều điều để bảo tồn sự sống cho nhơn sanh.
- Lòng
nhơn lớn, lòng hiếu lớn, Bực Thánh lớn, đức từ bi lớn.
- Văn võ
song toàn, tài giỏi tột bực, có đủ bốn đức : Hiếu, đức, trung, nhơn.
- Là
thượng khách của vua, thường bày kế họach giúp vua.
- Mở Đạo
Nho giáo hóa nhơn sanh.
- Đức Khổng
Tử lo việc ban phước lộc cho thế gian, là vị đế quân có đức rộng lớn.
- Trong
sạch, ngay thật, sáng tõ, báu sáng, nhơn từ, cứu giúp, là một Đấng Thiên Tôn.
Niệm: Nam Mô Khổng Thánh
Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn. (3 lạy, 9 gật)
* * *
Dịch thơ:
Kinh NHO
GIÁO.
Mùi quế
hương bay thơm nội điện,
Đức Văn
Xương hiện diện Thượng cung,
Chín lăm
lên xuống chuyển luân,
Nơi vườn
thi phố gieo ươn quả lành.
Trăm
thiên đã, hóa sanh sanh hóa,
Vun quế
hoè đức tạo tâm điền,
Văn linh
hơn sấm lôi thiên,
Hơn loài
linh điểu phổ truyền Đạo Nhơn.
Chí đức
linh, hiệp cùng chí thiện,
Hơn cự
ngao chống giữ hải sơn,
Khai tâm
hiếu trước song đường,
Ơn nhà nợ
nước tất trung đứng đầu.
Ứng điềm
lành biết bao nhơn lợi,
Lòng
thiện từ thương đoái khó nghèo.
Nhơn,
hiếu, thánh lớn, từ bi,
Vỏ, văn,
hiếu đức, dung hòa, trung nhơn.
Vua không
nước Nho Tông rộng mở,
Vua Văn
Tuyên thi cử hóa hoằng,
Trong,
tốt, chơn thiệt, chánh quang,
Bữu quang
từ tế cầm quyền Thiên Tôn.
Niệm: Nam Mô Khổng Thánh
Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn. (3 lạy, 9 gật)
Nam Mô KHỔNG
THÁNH TIÊN SƯ HƯNG NHO THẠNH THẾ THIÊN TÔN.
Thơ.
ĐỨC Trọng thông minh bậc
chí nhân,
KHỔNG tuyên Nho Giáo cứ
trần gian.
TỬ Thiên hành đạo vui sinh
thú,
VẠN ức trọng nhơn tạo nước
an.
THẾ sự thịnh suy đời rối
loạn,
THÁNH nhơn hưng quốc Đạo
kinh bang.
SƯ hành chính sự bình
thiên hạ,
BIỂU hiện gương lành rải
phước ân.
* * *
NGUỒN GỐC
KINH NHO GIÁO.
Khổng
Tánh chí tâm qui mạng lễ.
Kinh Nho Giáo KTCTQML là 1
trong 3 bài Kinh NHO, THÍCH, ĐẠO đã được các Đấng Thiêng Liêng giáng cơ ban cho
tại chùa Hàn Sơn, nơi Cô Tô Thành, Trung Quốc, vào khoảng nhà Thanh, đời vua
Thanh Nhơn Tông (1796-1820) và Thanh Tuyên Tông, niên hiệu Đạo Quang
(1821-1851), sau truyền sang Việt Nam.
SƠ LƯỢC
về TIỂU SỬ
ĐỨC KHỔNG
THÁNH
Tiên Sư
Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn
Đức Khổng Phu Tử sinh nhầm
năm Canh Tuất (551 TTL), năm thừ 21 vua Châu Linh Vương, ở sông Thu, Ấp Từ,
làng Xương Bình, Quận Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông. nước Lỗ.
Sách xưa nói về ngày sinh
của Ngài khác nhau. Nhưng trong Đạo Cao Đài thì lấy ngày 17-8 Âm Lịch, hằng năm
là Lễ Đản Sanh của Ngài.
Thân phụ của Ngài là Khúc
Lương Ngột, Mẹ là Nhan Thị. Hai Ngài lên núi Khâu cầu tự nên chừng sanh Ngài
lấy tên núi ấy mà đặt tên Ngài là Khâu, tự Trọng Ni.
Theo truyền thuyết, trước
khi sanh Ngài, thì Bà Nhan Thi thấy có người đem con Kỳ Lân đến cho Bà và nói
rằng: "Thủy Tinh chi tử, kế suy Châu
Tố Vương" nghĩa là con của nhà Thủy Tinh, nối nhà Châu suy, mà làm vua
không ngôi. Bà sợ con kỳ lân, thì nó thét lên là cho bà tỉnh thức, kế chuyển bụng
sanh ra Ngài.
Lúc sanh Ngài, Bà Nhan Thị
vào ở trong hang đá Khổng Tang, nơi núi Nam Sơn, nghe trên trời có âm nhạc va
tiếng nói: "Trời cảm lời cầu nguyện
cho sanh con Thánh". Lại cũng gần khi sanh ra Ngài, hang đá nức, có
dòng nước chảy. Bà Nhan Thị lấy nước ấy tắm cho Ngài, tắm xong, suối liền khô.
Ngài mồ côi cha lúc còn 3
tuổi. Khi còn bé Ngài có sở thích chơi cúng tế. Năm 19 tuổi, thì
lập gia đình, nhận chức Ủy Lại, kế Tư Cục Lại coi việc nuôi bò dê để cúng tế.
Thuở ấy, tuy còn nhỏ tuổi Ngài cũng đã nổi tiếng là người giỏi, cho nên quan
nước Lỗ là Trọng Tôn Cố cho hai con mình theo Ngài học lễ.
Ngài vốn là người Nho Học,
nên Ngài rất chú ý về lễ-nghi và những phép tắc của các đế vương đời trước. Hễ
nghe nơi nào có miếu đường hay Giáo Tổ thì Ngài tìm đến cầu học và khảo cứu các
chế độ lễ nghi.
Ngài học rộng, biết nhiều,
thấy xa, vua nước Lỗ dùng Ngài làm quan Đại Tư Khấu (hình bộ Thượng thư) sau 4
năm thăng lên Nhiếp Chính Sự (Tướng quốc) coi việc chính trị trong nước, song
chẳng bao lâu, vua mê nữ nhạc, bỏ việc triều chánh, ngăn cản không được, liền
từ chức, đi chu du các nước chư hầu như: Tề, Vệ, Tần, Sở, Tống thuyết phục các
vua chư hầu, mong đem cái Đạo của Ngài ra giúp đời, nhưng đi đến đâu, các vua
đều chuộng bá đạo, chứ không dùng Vương đạo của Ngài, Tuy nhiên các vua chư hầu
rất kính trọng Ngài, xem Ngài là thượng khách.
Mãi đến 64 tuổi,
Ngài mới quay trở về nước Lỗ, ở nhà dạy học, san định lại Ngũ Kinh (Kinh Thi,
Thơ, Lễ, Nhạc), và trước tác sách Xuân Thu (chép truyện từ vua nước Lỗ Ẩn
Công đến vua Lỗ Ai Công với lời phê bình, cốt để binh vực cang thường luân lý).
Học trò của Ngài có đến
3000 người. Trong đó có 72 người được liệt vào bực Hiền,
Ngài mất vào ngày 18-2,
năm Nhâm Tuất, hưởng thọ 73 tuổi (479 TTL).
(Theo Tự
Điển Thành Ngữ Điển Tích của Diên Hương)
ĐỨC KHỔNG
TỬ
HƯNG LẬP
ĐẠO NHO
Vào Nhứt Kỳ Phổ Độ, ba vị
vua PHỤC HY, THẦN NÔNG, HUỲNH ĐẾ là Giáo Tổ của Đạo Nho.
Vua Phục Hy chế ra Tiên
Thiên Bát Quái, lễ nhạc, quần áo. Các vua kế tiếp như Thần Nông, Huỳnh Đế chế
ra chữ viết, dạy dân cày cấy, dùng thảo mộc làm thuốc để trị bịnh,v.v...
Đến vua Văn Vương lại chế
ra Hậu Thiên Bát Quái, diễn giải Kinh Điển.
Nhưng đến Nhị Kỳ Phổ Độ,
Đức Khổng Tử gom tất cả sách xưa, sắp xếp và san định laị, mà Ngài chỉ phụ
chính Nho Giáo giải thích thêm cho sáng tõ, tạo thành NGŨ KINH: Dịch, Thi, Thơ,
Lễ, Nhạc và sau đó Ngài sáng tác Sách Xuân Thu để bày tõ cái Đạo của Ngài.
Như vậy, Đức khổng Tử
không phải là người sáng lập ra Nho Giáo và nhờ có Đức Khổng Tử mà Nho Giáo trở
thành một học thuyết có hệ thống gồm có hai phần: Hình Nhi Thượng Học và Hình
Nhi Hạ Học, áp dụng hiệu quả trong việc tu, tề, trị, bình giúp cho công
cuộc trị nước an dân.
Chính vì vậy, mà Đức Khổng
PhuTử được xưng là: "Khổng Thánh
Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn", Giáo Chủ của Nho Giáo trong Nhị
Kỳ Phổ Độ.
Ngôi vị của Ngài nơi cõi
thiêng liêng hằng sống rất cao trọng, vào hàng Phật vị, đứng ngang hàng với Đức
Thích Ca và Đức Lão Tử.
Thời Tam Kỳ Phổ Độ, Đức
Quan Thánh Đế Quân, đại diện Đức Khổng Tử, cầm quyền Nho Giáo, là Đệ Tam Trấn
Oai Ngiêm trong ĐĐTKPĐ.
Tinh hoa giáo lý của Nho
Giáo được Đạo Cao Đài áp dụng để chấn hưng nền phong hóa và luân lý của dân
tộc Việt Nam, tạo nên một khuôn mẫu cho toàn thế giới noi theo, đúng với
Thánh Ngôn của Đức Chí Tôn
"
Nam phong thử nhựt biến nhơn phong".
Nghĩa là: Phong hóa của Việt Nam
ngày ấy biến thành phong hóa của nhơn loại.
TÀI LIỆU VỀ GIÁO LÝ CỦA
ĐỨC KHỔNG TỬ TIÊN SƯ HƯNG NHO THẠNH THẾ THIÊN TÔN.
- Kinh Nho Giáo.
- Khai Kinh :
"Trung
dung Khổng Thánh Chỉ rành"
- Phật Mẫu Chơn Kinh
:
"
Xuân Thu Phất Chủ Bát Vu,
Hiệp qui Tam Giáo hưu cầu chí chơn"
- Kinh Xưng Tụng Công Đức
TTTP:
" Đạo Nho truyền
dạy nghĩa nhơn,
Văn Tuyển Khổng Thánh khuyên dân răn đời"
"
Hớn trào Quan Thánh Đế Quân,
Trung cang nghĩa khí háo sanh giúp đời"
- Giới Tâm Kinh:
"
Nguyền Khổng Thánh bảo toàn Nho Giáo,
Lấy nghĩa nhân Đại Đạo truyền ra"
"
Mong nhờ lịnh Đức Thánh Quân,
Ra tay tiêu diệt cho tàn ác ma."
- Những Bài Kinh Thế Đạo
đều có chuyên chở giáo lý của Nho Giáo, nặng về Nhơn Đạo.
- Thánh Ngôn, Thánh Giáo
Sưu Tập...
* * *
NHO GIÁO
Khổng
Thánh Chí Tâm Qui Mạng Lễ.
Giải nghĩa :
Nho giáo: Tôn giáo dạy về
Nhơn Đạo, có nguồn gốc từ các vị vua thời Trung Cỗ như Phục Hy, Thần Nông,
Huỳnh Đế, được Đức Khổng Tử phục hưng, sắp xếp và san định lại cho có hệ thống
và xiển dương rộng thêm tạo thành một học thuyết có giá trị cao siêu, đứng
ngang hàng với Phật giáo và Lão giáo.
Nho: Theo Hán
Văn, chữ Nho (儒): gồm hai chư Nhơn (...) ở bên chữ Nhu (柔,): Nhơn: Người. Nhu cần dùng, nhu cầu, chờ đợi.
Như vậy, NHO là hạng người lúc nào cũng được cần dùng đến để giúp nhơn quần,
xã hội biết sống cho hợp nhơn tâm, thuận Thiên Lý. Đó là hạng người quân tử
luôn ở thế chờ đợi tu, chờ thời. Khi có người cần đến thì sẳn đem tài năng ra
giúp đời trị bình, kinh bang tế thế.
Những người theo Nho Học thường chuyên về mặt thực tế hơn lý tưởng, có
khuynh hướng nhập thế để giúp cho lợi ích nhơn quần xã hội hơn là yếm thế xa
lánh việc đời là tìm sự an vui cho riêng mình.
Nho giáo: Tôn giáo dạy về Đạo làm người, trức tu thân, tề gia, sau giúp dân
giúp nước bình trị, mưu cầu Thiên Hạ được hạnh phúc thái bình.
Khổng Thánh: - Đức Khổng Tử.
Chí tâm qui mạng lễ: Lễ lạy với tất cả ý chí và thành tâm, đem mình về vâng
chịu nghe theo.
Luận giảng:
Nguồn gốc của Nho Giáo:
Theo Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng viết trong quyển Giáo Lý thì người
trung Hoa sau khi quần tụ đông đảo lập thành gia đình, con người lần lược đặt
ra kỹ cương cho gia đình, trong đó con người cha có quyền cai trị trong gia
đình, GĐ là căn bản cho xã hội, kế đến nước có ông vua trị vì muôn dân .
Nguyên thời Trung Cỗ ở Trung Hoa có năm vị vua là: Phục Hy, Thần Nông, Huỳnh
Đế, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, là năm vị vua đắc Đạo, có thần thông, thấy
những hiện tượng trong cõi Hư Linh.
Một hôm, vua Phục Hy dạo chơi trên sông Huỳnh Hà, ông trông thấy một con vật,
mình ngựa, đầu rồng, trên lưng có các dấu chấm. Ngài theo đó mà lập nên Bát
Quái Đồ, cắt nghĩa Đạo biến hóa của Trời Đất để làm nguyên tắc dạy con người.
Do đó, có thể nói Nho Giáo được thành lập. kết hợp một phần thực tế và một phần
huyền lý của Trời Đất nghĩa là Nho Giáo lấy Đạo trời làm khuôn mẫu dạy người.
Làm theo Đạo Trời là làm lành lánh dữ. Cỗ nhơn học nho để giúp đời, mưu cầu đem
lại trật tự thạnh trị, thái bình cho Thiên Hạ.
Đến đời nhà Châu, trào vua Linh Vương (551, TTL), có một vị Thánh Nhơn ra đời,
tên Khâu, tự Trọng Ni, tức Đức Khổng Tử, Ngài chỉnh đốn Nho Giáo thành một giáo
thuyết có hệ thống mạch lạc. Nhơn đó, người đời còn gọi Nho giáo là Khổng
Giáo.
ĐỨC KHỔNG TỬ VỚI ĐẠO CAO ĐÀI.
Ngày nay, Đức Khổng Thánh đã đắc lịnh nơi Đức Chí Tôn, đứng trong Tam Giáo
cùng Thích Lão, chiếu theo Thiên Thơ, lập nên ĐĐTKPĐ, gọi tắt là Đạo Cao Đài. Sứ mạng
của Ngài, phù hợp với hồng danh cuả Ngài là:
" Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên
Tôn"
Tóm lại, Nho Giáo Khổng Thánh chí tâm qui mạng lễ là khi lễ lạy phải đem hết
ý chí, tâm thành cùng thân mạng, vâng phục, nghe theo giáo lý Đạo Nho, do Đức
Khổng Thánh phục hưng để làm tròn bổn phận làm người góp phần xây dựng một xã hội
đạo đức, thạnh trị, thái bình cho Thiên Hạ vậy.
* * *
Giải Nghĩa:
Câu 1: Quế hương nội điện
Văn Thỉ thượng cung.
Nghĩa câu: Ở trên cõi thiêng liêng có một tòa
nhà lớn gọi lả Điện Quế Hương, trong đó có một Cung ở bên trên hết gọi là Cung Văn
Thỉ. Đó là nơi thường ngự của Đức Khổng Tử, giáo chủ Đạo Nho.
Câu 2: Cữu thập ngũ hồi,
Chưởng thiện quả ư thi thơ
chi phố.
Nghĩa câu: Đức Khổng Tử luân hồi lần để
gieo trái lành nơi vườn thi văm, kinh sách.
Câu 3: Bá Thiên vạn hóa,
Bồi quế thọ ư, âm chất chi
điền.
Nghĩa câu : Trăm ngàn muôn biến hóa, vun bồi cây quế
nơi ruộng phước đức.
Câu 4: Tự lôi trử bính, linh ư phụng lảnh.
Nghĩa câu: Văn tự, sấm nổ chất chứa, ngọn lửa
linh thiêng ở tại, chim phụng trên núi.
Tóm lại, văn tự được các Nho Gia chế thành, khiến
cho Trời Đất rung động, sanh ra sấm sét, người người đều kinh sợ, nhưng nó vô
cùng linh thiêng và giúp ích cho nhơn sanh trong việc học hỏi để trở thành những
bậc Thánh Hiền.
Câu 5: Chí như ý từ, tường ư ngao trụ.
Nghĩa câu: Đến như ý tưởng lành biết thương
yêu người, tốt đẹp vững vàng như ở núi Cư Ngao.
Tóm lại, cái ý tưởng tốt lành, biết thương yêu, chẳng
những vững vàng như Ngao Trụ mà nó rất cần thiết cho người tu hành, đắc đạo để
hội hiệp cùng Thầy nơi cõi thiêng liêng hằng sống.
Câu 6: Khai nhơn tâm tất bổn,
ư đốc thân chi hiếu.
Nghĩa câu: Sự khai mở cái tâm con người ắt hẳn
ở tại sự hiếu thảo với cha mẹ.
Câu 7: Thọ quốc mạch tất tiên,
ư trí chúa chi trung.
Nghĩa câu: Sự lâu dài của quốc gia, ắt hẳn,
trước tiên ở tại hất lòng trung thành với nước.
Ý nói, muốn quốc gia bền vững thì trước tiên người dân phải hết lòng trung
thành với nước.
Câu 8: Ứng mộng bảo sanh
thùy từ mẩn khổ.
Nghĩa câu: Đức Khổng Tử có lòng nhơn từ
thương người khổ nạn, nên Ngài thường nằm chiêm bao thấy ông Châu Công dạy
bảo nhiều điều để bảo tồn sự sống cho nhơn sanh.
Câu 9 : Đại Nhơn, Đại Hiếu,
Đại Thánh, Đại Từ.
Nghĩa câu: Lòng nhơn lớn, lòng hiếu lớn,
bực Thánh lớn, đức từ bi lớn.
Câu 10: Thần văn, Thánh võ
Hiếu đức,Trung nhơn.
Nghĩa câu : Văn võ song toàn, tài giỏi như Thần,
như Thánh gồm đủ đức : Hiếu, Đức, Trung, Nhơn.
Câu 11: Vương tân sách phụ
Câu 12: Nho Tông khai hóa.
Nghĩa câu 11: Đức Khổng tử là bực thượng khách của
vua chư hầu, thường giúp bày kế họach trị nước an dân.
Nghia câu 12: Mở ra Đạo Nho để giáo hóa nhơn
sanh.
Câu 13: Văn Tuyên Tư Lộc
Hoằng nhơn Đế Quân
Giải nghĩa:
Văn Tuyên: Tên thụy của Đức Khổng Tử, do các vua đời sau truy tặng Ngài với
tấm lòng ngưởng mộ công đức sâu dầy của Ngài đã hưng phục Đạo Nho, giúp cho
công cuộc trị nước an dân thạnh trị thái bình.
Tư Lộc: Tư là lo việc, quản lý; Lộc: phước lộc. Tư Lộc: Lo việc ban phước lộc
cho thế gian về văn chương, thi cử và phẩm tước nơi quan trường. Hoằng: Rộng lớn,
Nhơn: Lòng thương người, mến vật, thương yêu khắp cả chúng sanh. Đế Quân: Phẩm
tước cao trọng nơi cõi thiêng liêng mà Đức Chí Tôn phong thưởng.
Hoằng nhơn đế quân: Đức Khổng Tử là một vị Đế Quân nhơn đức rộng lớn.
Câu 14: Trừng chơn chánh quang
Bửu quang từ tế Thiên Tôn
Nghĩa câu: Đức Khổng Tử có đức tánh trong sạch,
chơn thật, ngay thẳng, sáng tõ, báu quí, lòng thương yêu, cứu giúp và là
một Đấng Thiên Tôn.
Niệm: Nam Mô Khổng Thánh Tiên Sư
Hưng Nho thạnh thế Thiên Tôn.
Đức Khổng Thánh là bậc Thầy hưng phục Đạo Nho, làm cho học thuyết Nho Giáo
có hệ thống rõ ràng, đã đưa Nho Giáo lên ngang hàng với Tiên Giáo và Phật Giáo.
Nước Trung Hoa cũng nhờ Nho Giáo mà được thịnh vượng và hùng mạnh như chúng ta
đã thấy trong lịch sử quá khứ của Trung Quốc nên Ngài được phong là bực Thiên
Tôn.
* HT/Lê Văn Năm.
HẾT