I - Về nguồn gốc phát tích hiện tại đối với hai nhóm
Vô Vi và Phổ Ðộ như sau:
1 . Ðối với Ðức Ngô Ðại Tiên: Ðức Chí Tôn xưng danh
Cao Ðài lần đầu tiên vào năm 1920 trong một dịp như sau:
Vào một buổi đàn cơ do đồng tử âm dương (Nguyễn văn
Vân và ông Bộ Thọ) Pháp đàn là ông Trần phong Sắc, ông Kim là điển ký và Ðức
Ngô làm độc giả. Khi đọc đến câu:
"Ngũ chơn bửu khí lâm triều thế.
Giá hạc đằng vân xiển tự nguyên".
Có một vị Tiên Ông giáng xưng là Cao Ðài Tiên Ông, cơ
gõ mạnh, và bảo ông Trần Phong Sắc sửa lại hai câu ấy. Ông Sắc vốn là một nhà
Nho sành sỏi, nhưng không biết Cao Ðài Tiên Ông là ai, nên trả lời một cách
suồng sã rằng: "Bài thỉnh Tiên này ra 100 năm về trước rồi, từ bên Trung
quốc qua đây không ai dám cho là sái, nay Ngài bảo sửa, nói vậy là thiệt trật
hay sao?"
Tiên Ông quơ cơ đập mạnh vì ông Sắc vô lễ. Kế Ðức Cao
Ðài Tiên Ông gọi tên Ðức Ngô biểu sửa. Ngài bèn sửa như vầy:
"Bửu Chơn ngũ khí lâm triều thế"
Tiên Ông khen.
Cả nhóm người đều chưa hiểu Ðức Cao Ðài là ai. Riêng
Ðức Ngô tin rằng đó là ông Trời mới dám sửa kinh sách từ xưa như vậy.
2 . Ðối với nhóm đệ tử thứ hai (về Phổ Ðộ).
Chậm hơn đức Ngô ít năm, quí vị tiền bối Cao quỳnh Cư,
Phạm công Tắc, Cao hoài Sang, và các vị khác nữa từ tháng 7/1925 tập xây bàn cơ
tại nhà cụ Cao hoài Sang. Lúc đầu là hồn thân quyến về, sau đó Ơn Trên dạy Ðạo
cho các ông.
Một Tiên Ông xưng là A Ă Â biểu các ông phải kêu bằng
Thầy và Ngài gọi các ông là "con".
Cho đến đêm Noel 1925 Tiên Ông mới xưng "Ngọc
Hoàng Thượng Đế kim viết Cao Ðài Giáo Ðạo Nam Phương".
"Bấy lâu Thầy vẫn tá danh A Ă Â là để dìu dắt các
con vào đường đạo đức hầu chẳng bao lâu đây các con sẽ ra giúp Thầy mà khai
Ðạo. Các con thấy Thầy khiêm nhường dường nào chưa ? các con nên bắt chước Thầy
trong mảy mún thì mới xứng đáng là người đạo đức".
(hai tài liệu này trích từ quyển lịch sử Ðức Ngô Minh
Chiêu)
II - Những văn kiện xa xưa đề cập 2 tiếng Cao Ðài:
1 . Xa xưa chúng ta thấy có:
Tiên tri trong quyển Vạn Pháp Qui Tông: Quyển này do
các đạo sĩ truyền lại hơn mấy trăm năm nay. Ðức Ngô Ðại Tiên thuở ban đầu có
cầu cơ với các bài thỉnh Tiên rút ra từ quyển này. Trong Vạn Pháp Qui Tông có
câu:
"Cao Ðài Tiên Bút thi văn tự" chỉ rõ trong
Ðạo Cao Ðài có thơ văn của chư Tiên do thần cơ diệu bút tiếp ra.
2 . Lời tiên tri của các Lão Sư Chi Minh Sư hay là Ðại
Ðạo bên Trung Quốc:
Sau khi nhà Thanh lên thay thế nhà Minh, một số cựu
thần nhà Minh không phục nhà Thanh bèn lên núi ẩn tu lập ra chi Minh Sư, Minh
Ðường hay là Ðại Ðạo. Một quyển kinh của các Lão sư phái này đã được chuyển từ
Trung Quốc sang Việt Nam, ngoài bìa sách có hai câu thơ tiên tri như sau:
"Cao như Bắc Khuyết nhân chiêm ngưỡng
Ðài tại Nam Phương Ðạo thống truyền"
Hai câu đối này cho biết Ðạo Cao Ðài sẽ xuất hiện tại
Nam Phương mà Ðức Cao Ðài là Giáo Chủ, Ðức Cao Ðài tức là Ðức Huyền Khung Cao
Thượng Ðế Ngọc Hoàng Ðại Thiên Tôn, ngự tại phương Bắc hay là Bắc Khuyết.
3 . Lời tiên tri trong Minh Thánh Kinh Linh sám, Trong
quyển này có câu:
"Mạng hữu Cao Ðài Minh Nguyệt chiếu".
Cho biết tánh của Ðức Thượng Ðế giáng trần mở nền Chơn
Giáo, sáng tỏ như Trăng rằm.
4. Lời tiên tri trong sách "Ấu Học Tầm Nguyên"
Sách có câu :
"Ðầu Thượng Viết Cao Ðài"
Nghĩa là nơi ở trên đỉnh đầu mọi người thì gọi là Cao
Ðài.
5. Kinh Nhựt Tụng của một phái tu thân tại Trung Việt
:
Tại Trung Việt 20 năm trước ngày khai Ðạo (năm 1926)
có một phái người tu theo lối cư sĩ lấy hiệu là phái Minh Sư, mỗi ngày đọc kinh
có thêm câu:
"Con cầu Phật Tổ Như Lai
Con cầu cho thấu Cao Ðài Tiên Ông"
Khi các Giáo sĩ Ðạo Cao Ðài ra truyền Ðạo tại Tam Quan
(Trung Việt) thì quí vị này sau khi nghe danh hiệu đức Cao Ðài đều đến xin làm
đệ tử ngay.
6. Lời tiên tri lưu truyền tại Trung Việt đã lâu đời
trước năm khai Ðạo (1926):
"Canh Dần Mậu Dần niên,
Kỷ Mão Canh Thìn tiền;
Tự nhiên Thiên phú tánh,
Cao Ðài tân chân truyền."
Lời tiên tri này nói rõ năm và báo trước rằng: "Trời
sẽ khiến lòng người theo Ðạo mới và Ðạo Cao Ðài sẽ đạt chân truyền."
7 . Lời tiên tri của chơn linh cụ Thủ Khoa Huân cho
năm 1913 (13 năm trước ngày khai Ðạo).
Tại quận Cao Lãnh Việt Nam, ngày 3 tháng 2 năm 1913
các ông văn Nho, kỳ hào có họp nhau tại nhà ông Lê quang Hiển, nhạc phụ của ông
Diệp văn Kỳ, để phò cơ thỉnh Tiên, khi cơ lên chơn linh cụ Thủ Khoa Huân, một
nhà cách mạng bị tử hình tại Mỹ Tho giáng cơ cho bài thơ sau đây:
"Tứ triêm đào lý nhứt môn xuân
Canh tân bôi ức
giang san cựu
Trừ cựu thời thiên
tuế nguyệt tân
Cửu thập thiều
quang cơ bán lục
Nhất luân minh
nguyệt vị tam phần
Thừa nhàn hạc giá
không trung vụ
Mục để Cao Ðài
tráng chí thân "
Thích môm: (của cụ
Thủ Khoa Huân)
Co dủi Cao Ðài khỏe
tấm thân
Dạo xem đào lý đượm
màu Xuân
Giang san chẳng
khác ngàn năm cũ
Ngày tháng chờ thay
một chữ tân
Chín chục thiều
quang vừa nửa sáu
Một vầng trăng rạng
chứa ba phần
Thừa nhàn cỡi hạc
không trung ruổi
Chạm mắt Cao Ðài
khỏe tấm thân."
Trong hai bài thơ
có nhắc đến danh từ Cao Ðài. Thời buổi ấy các ông không rõ danh từ ấy có nghĩa
! Song các ông biết rằng đại cương hai bài thơ ấy, có nói về quốc vận một cách
sâu xa. Hai câu thi 5 và 6 có ý kỷ niệm ngày 3 tháng 1 năm 1913, vào câu nào
cũng ngụ ý số 3. Sau đàn cơ ấy ông Lê quang Hiển để hai bài thơ này lên trang
thờ để làm kỷ niệm.
Mãi đến năm 1927
Tòa Thánh Tây Ninh phái chức sắc đến quận Cao Lãnh truyền Ðạo, và khi chữ Cao
Ðài đã dược mọi người nói đến. Chừng ấy ông Lê quang Hiển mới nhớ lại hai bài
thơ của cụ Thủ khoa Huân đã cho 13 năm trước và đem ra trình với chư chức sắc
nói trên.
(Tài liệu trích
lược trong quyển Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ (Cao Ðài Giáo sơ giải) của Ðạo Trưởng
Huệ Lương)
III- Nghĩa Tá Danh:
Tá danh là mượn
tên, Vậy hai tiếng Cao Ðài Ðức Thượng Ðế đã mượn từ lâu, Qua các kinh sách xưa.
Đến năm 1920 Đức Thượng Đế trực tiếp gián cơ tại Việt Nam, là lần đầu tiên trên
trái đất này, thông qua mặt khải cho Đức Ngô với tá danh :
CAO ĐÀI TIÊN ÔNG
ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
Tá danh trên thể
hiện câu chú Tâm Pháp, trong phần luyện Đạo, đến bây giờ vẫn vậy.
Đối với công truyền
Thượng Đế Chí Tôn tá danh qua nhóm quí anh lớn Cao Phạm, trong lúc lập đàn cơ:
NGỌC HOÀNG THƯỢNG
ĐẾ KIM VIẾT CAO ĐÀI GIÁO ĐẠO NAM PHƯƠNG.
Ý nghĩa là: Vua
Trời đến dạy Đạo nam phương là Việt Nam, đây là ân phước lớn cho nhân loại, mở
ra một kỷ nguyên sáng tỏ tâm linh Đại Đồng, vạn giáo nhất lý, tất cả cùng một
gốc là Thượng Đế.
Những Thánh giáo
minh định ý nghĩa Cao Đài:
1 . Vào năm 1927,
trong một đàn cơ ở Cần Thơ, Ðức Thượng Ðế cho cho một bài thi như sau:
"Linh Tiêu
nhứt tháp thị Cao Ðài
Ðại hội quần Tiên
thử ngọc giai
Vạn trượng hào
quang tùng thử xuất
Cổ danh bửu cảnh
Lạc Thiên Thai. "
Có nghĩa: Nơi điện
Linh Tiêu trên Thiên Ðình có một ngôi tháp tên gọi là Cao Ðài, quần Tiên thường
nhóm họp ở trước bệ ngọc ấy, hào quang muôn trượng do đó mà phát ra. Tên xưa
của cảnh quí báu ấy là "Lạc Thiên Thai".
Như vậy Cao Ðài
chính là tên một ngôi tháp trên Thiên Ðình mà Ngài đã mượn vậy.
2. Cùng một ý nghĩa
trên ta tìm được nơi trang đầu sách Thánh bằng chữ Hán, do Hội truyền Giáo
người Anh, xuất bản năm 1913 ở Thượng Hải có câu:
"Hỡi Ðấng
Jéhovah, Ngài là cái lâu đài cao thượng mà nơi đó chúng con có thể ẩn trú".
3. Những ngày khởi
đầu tu Tâm Pháp Ðức Ngô đã từng viết hai câu sau trên tường để chiêm nghiệm:
"Cao Ðài ứng
hóa theo lòng chúng sanh,
Ðố ai có biết cái
danh Cao Ðài ?".
4 . Chiếc Tự hai
chữ CAO ĐÀI (高 臺 ) cho ta thêm
chánh kiến về nghĩa lý:
- Chữ CAO là một bộ
thủ trong 214 bộ thủ chữ Hán, vì bộ chữ không thể phân tích, vì nó giống như
chữ cái của ta. CAO nghĩa Cao đối với thấp
- Chữ ĐÀI từ trên
xuống dưới gồm bộ :
Sĩ 士 (Thầy) + khẩu 口(miệng ) thành từ
cát 吉 ( nghĩa: tốt đẹp); giữa bộ
mịch 冖 (nghĩa: trùm); dưới cùng là
bộ nhất - (một )+ bộ khư 厶(Riêng tư) + bộ thổ
土( đất) thành chữ chí 至 (nghĩa: đến, tới, rất, cực kỳ) .
Tổng hợp các nghĩa
chiếc tự chữ CAO ĐÀI :
Chữ "Sĩ"
là Thầy trên Cao, kế tiếp chữ ( khẩu) là rao truyền điều tốt đẹp là chữ (cát),
trùm đến tất cả là (mịch), chúng sanh trên mặt đất là( thổ), những riêng tư là
(khư), qui nhất trong một thể Đài là(Nhất). tạo ngôi cao là (chí). Với bao
nhiêu nghĩa chiếc đó, đã toả lên yếu lý tá danh Cao Đài Thượng Đế Chí Tôn. Giúp
ta hiểu như lời dạy trong Thánh giáo:
"Cao Đài là cái đài cao,
Vượt lên tất cả đón rào ngăn che."
Cao Đài nghĩa đen là cái đài, cái tháp cao, ám chỉ
đỉnh cao nhứt của vũ trụ, là đích tiến hóa sau cùng của chúng sanh.
Cao Đài là tá danh của Đức Thượng Đế khi mở Đại Đạo
Tam kỳ lần này, là nêu lên Thiên ý Đấng Tối Cao đang đến dìu dắt nhân loại,
cùng quay trở về nguồn cội cao nhứt của mình, ấy chính là Thượng Đế.
Trong cái nghĩa lớn lao đó, hai chữ CAO ĐÀI, mà Thượng
Đế đã tá danh, đã lồng trong câu niệm hiện nay, giúp hành giả thăng tiến trên
đường học Đạo, tu thân.
Bài viết tích hợp vài ý nhỏ tượng trưng, về hai chữ
Cao Đài, để hồi hướng về ngày rằm tháng mười Đại Lễ Khai Minh Đại Đạo.
NAM
MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT.
*
Chơn Thọ.
Home. Mục Lục: [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ] [ 9 ] [ 10 ] [ 11 ] [ 12 ] [ 13 ] [ 14 ] [ 15 ] [ 16 ] [ 17 ] [ 18 ] .