1.
Những vạn vật Âm Dương tạo hóa,
2.
Dầu cỏ cây hoa quả biến sanh,
3.
Con người đứng phẩm tối linh.
4.
Nửa người nửa Phật nơi mình anh nhi,
5. Đại Từ Phụ từ bi
tạo hóa,
6. Tượng mảnh thân
giống cả Càn Khôn,
7. Vẹn toàn đủ xác
đủ hồn,
8. Xây cơ chuyển thế
bảo tồn vạn linh.
9. Xin gìn giữ Thánh
hình thanh bạch,
10. Xin xá ân giải sạch
tiền khiên,
11. Căn xưa ví dữ cũng
hiền
13. Công nuôi dưỡng nâng
niu khó nhọc
14. Phép thương yêu cũng
học nơi Thầy.
15. Sanh nơi đây ở nơi
đây,
16. Trăm năm là tuổi đủ
đầy mạng căn.
17. Chốn hồng trần quen
lằn gió bụi,
18. Cảnh phù ba may rủi
cũng duyên,
19. Đã gan dốc kiếm diệu
huyền,
20. Sanh sanh là phận,
hiền hiền là công.
21. Đừng thối chí ngã lòng
trở bước,
22. Để cho đời chua xót
tình thương
23. Trăm năm thọ khảo vĩnh
trường,
24. Thuận căn thuận mạng
đôi đường cao thăng.
(Niệm 3 lần câu Chú của
Thầy)
* Nguyệt Tâm Chơn Nhơn.
XUẤT XỨ :
Kinh Tắm
Thánh do Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ ban cho. Ðồng nhi tụng bài kinh nầy
trước khi vị Chức sắc hành pháp Tắm Thánh cho các trẻ em trong Ðạo.
Ðức Phạm
Hộ Pháp thuyết đạo cho biết, Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn là một vị Thánh của Bạch
Vân Ðộng nơi cõi thiêng liêng. Ngài có chiết chơn linh giáng trần một kiếp tại
Việt Nam là Thi hào Nguyễn Du, sau đó Ngài chiết chơn linh giáng sanh bên Pháp
là Văn hào Victor Hugo.
Trong
thời Tam Kỳ Phổ Ðộ, Ngài thọ lịnh Ðức Chí Tôn cầm quyền Chưởng Ðạo Hội Thánh
Ngoại Giáo của Ðạo Cao Ðài. Ngài thường giáng cơ giáo hóa các Chức sắc của Hội
Thánh Ngoại Giáo.
Ðức
Nguyệt Tâm Chơn Nhơn có giáng cơ ban cho 6 bài Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo, xin
kể ra như sau:
1. Kinh Tắm Thánh.
2. Kinh Tẫn Liệm.
3. Kinh Cầu Hồn Khi Hấp
Hối.
4. Kinh Ðưa Linh Cửu.
5. Kinh Khi Ðã Chết
Rồi.
6. Kinh Hôn Phối.
Tắm Thánh: Xối nước Thánh
lên đầu đứa bé. Nước Thánh đó là Ma Ha Thủy.
Cách luyện Ma Ha Thủy đã giải rõ nơi phần cuối bài
Kinh Giải Oan.
Nay xin nhắc lại như sau:
(Khi Chức sắc hành Phép Giải Oan hay tắm Thánh thì
phải luyện Ma Ha Thủy trước. Cách luyện Ma Ha Thủy như sau:
Múc một tô nước để tại Thiên Bàn. Người hành pháp đứng trước, định Thần ngó
ngay lên Thiên Nhãn, vẽ bằng con mắt chữ (…) trong con ngươi của Thiên Nhãn,
rồi co chân trái vẽ chữ (…), đạp lên chữ (…) ấy, rút chân mặt ký chữ (…) gọi là
đạp Ðinh Giáp. Khi hành pháp như vậy rồi thì tay trái bắt ấn Hộ Pháp để ngay
ngực, tay mặt cũng bắt ấn Hộ Pháp để trên tô nước buông ấn ra, co ngón tay giữa
vẽ bùa (…), đoạn ngay ngón tay ra truyền thần xuống nước, niệm Câu Chú: "Ma
Ha Thủy năng hủy oan nghiệt tội chướng chi đọa.” Nhắm mắt định Thần,
đợi thấy Thiên Nhãn giáng trên mặt nước thì xả ấn. Ma Ha Thủy đã luyện thành.
Hành Pháp Giải Oan hay Tắm Thánh :
Cầm tô nước nơi tay mặt, đến trước mặt người được giải oan hay Tắm Thánh
biểu cúi đầu xuống, lấy con mắt vẽ chữ (…) ngay Nê Huờn Cung. Hễ vẽ vừa xong
liền chụp 5 ngón tay trái lên mỏ ác gọi là ấn Ngũ Hành Sơn, vừa chụp vừa
niệm Câu Chú nầy:
"Úm Ma Ni Bát Rị Hồng."
Ðoạn cầm tô nước đổ ngay xuống mỏ ác 1 giọt niệm: "Nam mô Phật",
rồi giọt thứ 2 niệm: "Nam mô Pháp", rồi trút hết tô nước niệm:
"Nam mô Tăng, Nam mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát."
Phép Giải Oan hay Tắm Thánh đã làm xong.
Người được giải oan hay Tắm Thánh lạy Ðức Chí Tôn 3 lạy 12 gật, rồi đứng
dậy lui ra.)
Theo Tân
Luật của Ðạo Cao Ðài, phần Thế Luật, điều thứ 22: "Ðứa con nít khi được 1 tháng sắp lên, phải
đem đến Thánh Thất sở tại mà xin làm Lễ Tắm Thánh và ghi vào Bộ Sanh của bổn
đạo."
Mục đích
của Phép Tắm Thánh là:
1 - Trình
với Ðức Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu, cùng các Ðấng Thiêng liêng để công nhận đứa bé
nầy là con của nhà Ðạo Cao Ðài, tức là con cái của Ðức Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu
trong Ðạo Cao Ðài.
2 - Tẩy
trược Chơn thần đứa bé để nó được thông minh sáng láng, lớn lên học hành mau
hiểu biết.
CHÚ GIẢI :
Câu 1 - 2:
Những vạn vật Âm Dương tạo hóa,
Dầu cỏ cây hoa quả biến sanh:
Vạn vật:
Tất cả các loài vật hiện hữu, từ Vật chất, Kim thạch, Thảo mộc, Thú cầm đến
Nhơn loại.
Âm Dương:
陰 陽 Âm: Một thứ khí
trong trời đất, đối với dương, nghĩa rộng là giống cái, là dưới, là tĩnh, là tối
tăm.
Dương: Một khí trong trời đất, trái với âm, nghĩa rộng
giống đực, là động, là trên, là sáng sủa.
1. - Theo nguyên lý của Dịch
học: Thái Cực sinh ra Lưỡng Nghi, tức là hai khí Âm, khí Dương.
Khí Dương thuộc đàn ông, ánh sáng, động… khí Âm thuộc
đàn bà, bóng tối, tĩnh… Hai thứ khí nầy giao nhau và biến hoá thành muôn vật.
Cơ sanh hoá Càn Khôn đào tạo,
Do Âm Dương hiệp đạo biến thiên.
* Kinh Thế Đạo.
Những vạn vật Âm Dương tạo hoá,
Dầu cỏ cây hoa quả biến sanh.
* Kinh Tận Độ.
2. - Âm dương còn
dùng để chỉ đất Trời, vợ chồng, Địa phủ và Dương gian.
Âm Dương đôi nẻo như nhau,
Cửu Huyền Thất Tổ giữ câu thọ trì.
* Kinh Thế Đạo.
Theo Giáo Lý ĐAO CAO ĐÀI, Hai chất khí Dương quang và Âm quang do
Thái Cực biến hóa phân ra. Ðức Chí Tôn làm chủ Dương quang, Ðức Phật Mẫu làm chủ
Âm quang. Ðức Phật Mẫu thâu lằn Sanh quang của ngôi Thái Cực, rồi đem Âm quang
phối hợp với Dương quang để tạo thành CKVT và vạn vật.
Tạo hóa : 造 化,Tạo là làm ra, hoá là biến đổi. Tạo hóa là biến đổi
để làm ra cái mới.
Tạo hoá là tiếng dùng để chỉ ông Trời tạo ra càn
khôn vũ trụ và biến hoá ra con người và muôn vật.
- Theo Phú Giả Nghị có câu: Thiên địa vi lô hề,
tạo hoá vi công, âm dương vi thán hề, vạn vật vi đồng
天 地 為 爐 兮,
造 化 為 工,
陰 陽 為 炭 兮,
萬 物 為 銅.
Nghĩa là trời đất làm lò hề, tạo hoá làm thợ, âm
dương làm than hề, vạn vật làm đồng.
Ơn Tạo hoá tha tiền khiên
trước,
Đưa linh phan tiếp rước nguyên nhân.
* Kinh Thế Đạo.
Đại Từ Phụ từ bi Tạo hoá,
Tượng mảnh thân giống cả Càn Khôn.
* Kinh Tận Độ.
À Ðất Trời kia ai Tạo hoá,
Hoá sanh chung hưởng há quên già.
* Đạo Sử.
Hiệp Tạo hoá cầm quyền chuyển thế,
Dạy vạn linh dụng thế từ bi.
* Nữ Trung Tùng Phận.
Biến sanh: Biến hóa sanh ra.
Hoa quả: Hoa là cái bông, Quả là cái trái. Các loài
thảo mộc thường có bông, trong bông có nhụy đực và nhụy cái. Nhụy đực rơi vào
nhụy cái để kết thành trái. Trong trái có hột, lấy hột gieo xuống đất thì hột nẩy
mầm sanh ra một cây mới. Và cứ thế, loài thảo mộc sanh sản càng ngày càng nhiều.
C.1-2: Vạn vật đều do 2 Khí Âm quang và Dương quang phối hợp tạo thành; dầu
cho là thảo mộc có bông có trái, cũng do 2 Khí Âm Dương biến hóa sanh ra.
Vật chất
thì do các nguyên tử có Dương điện và có Âm điện kết hợp tạo thành; Thảo mộc
thì có nhụy đực nhụy cái, Thú cầm thì có con trống con mái, Nhơn loại thì có
Nam Nữ, hai nguyên lý Âm Dương ấy kết hợp mới sanh hoá được.
Câu 3:
Con người đứng phẩm tối linh :
- Phẩm: Thứ bực cao thấp. 品 秩 Phẩm: Thứ bậc của quan hoặc chức
sắc. Trật: Trật tự, thứ tự.
Phẩm trật là thứ bậc của phẩm tước, tức là thứ bậc
cao thấp của các quan hoặc chức sắc tôn giáo.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy:
"Các con coi đó thì đủ hiểu, các phẩm trật của
các con nó nhiều là dường nào, song ấy là phẩm trật Thiên vị."
Thầy cậy mượn ai không lòng vụ tất,
Mà làm công đoạt phẩm trật mình.
* Ngọc Hoàng Thượng Đế.
- Tối linh: 最 靈 Tối: Hết sức, rất. Linh: Thiêng liêng, linh thiêng.Tối linh
là rất linh thiêng, linh thiêng hơn hết.
Thánh giáo Quan Âm Như Lai có câu:
"Ấy là một lẽ, còn một lẽ nữa là người sanh
trong cõi trần, Ðức Ðại Từ Bi ban cho một tánh tối linh hơn vạn vật, là có ý
thay thế cho Người mà dìu dắt loài yếu hèn hơn"
Con người đứng phẩm tối linh,
Nửa người nửa Phật nơi mình anh
nhi.
* Kinh Tận Độ.
Thiên địa tối linh sanh
Thánh chất,
Quân vương háo nghĩa tác Hiền thần.
* Đạo Sử.
C. 3: Con người đứng vào bực
rất thiêng liêng hơn hết trong chúng sanh.
-:- Tại sao con người đứng
phẩm tối linh?
Bởi vì theo Luật Tiến hóa, loài Kim thạch tiến hóa
lên thành Thảo mộc, Thảo mộc tiến hóa lên Thú cầm, Thú cầm tiến hóa lên Nhơn loại.
Nhơn loại là bực cao hơn hết trong chúng sanh, nên được gọi là Thượng đẳng
chúng sanh.
Con người lại có đủ Tam hồn. Từ Kim thạch vô tri
giác, tiến hóa lên Thảo mộc có sự sống rõ rệt, nên Thảo mộc có được một phần
hồn, gọi là Sanh hồn. Thảo mộc tiến hóa lên Thú cầm, nó có thêm một phần
hồn nữa gọi là Giác hồn, để có sự cảm giác và hiểu biết. Thú cầm tiến
hóa lên Nhơn loại thì có thêm một phần hồn nữa là Linh hồn.
Vì vậy, con người linh hơn vạn vật nhờ có đủ Tam hồn:
Sanh hồn, Giác hồn, Linh hồn. Nhờ đó, con người có được sự sống, sự cảm
giác hiểu biết, sự suy nghĩ và có tánh linh hơn vạn vật. Nhờ có Linh hồn nên
con người có thể tu thành Thần Thánh Tiên Phật được.
Câu 4:
Nửa người nửa Phật nơi mình anh
nhi :
Anh nhi: Anh là đứa trẻ mới sanh, nhi là trẻ con.
Anh nhi là chỉ đứa bé nhỏ tuổi.
Nửa người nửa Phật: Ý nói con người vừa có Phàm
tánh, vừa có Phật tánh, hay nói một cách mạnh mẽ hơn là: Con người vừa có Thú
tánh, vừa có Phật tánh, tức là vừa có tánh ác, vừa có tánh thiện.
Trong Thuyết đạo về Bí Pháp của Ðức Phạm Hộ Pháp có
đoạn :
"Chúng ta ngó thấy trong mình chúng ta có Thần
và Thú. Vì cớ cho nên Triết lý Thất tình định duy chủ, muốn làm Phật thì làm,
muốn làm Thú thì làm, bởi nó định theo tình dục của nó. Bây giờ, trong thân thể
của chúng ta, trong nguyên bổn của chúng ta vẫn thường chiến đấu: Phật chiến đấu
với Thú, Thú chiến đấu với Phật. Hai hình trạng của Ðời và của Ðạo, Ðạo xu hướng
theo Phật, Ðời xu hướng theo Thú, hai tương quan phản khắc nhau. Vì cớ cho nên,
Thuyết Duy Tâm và Duy Vật hay tương đối với nhau."
Như thế, con người vừa có tánh ác của Thú, vừa có
tánh thiện của Phật. Có tánh ác của Thú vì con người là do loài Thú tiến hóa mà
thành; có tánh Phật vì con người được Ðức Chí Tôn ban cho một Ðiểm Linh quang
làm Linh hồn. Vì vậy mà con người có thể tiến hóa đi lên, mà cũng có thể thoái
hóa đi xuống. Nếu con người chịu khổ hạnh tu hành, chắc chắn sẽ tiến hóa thành
Tiên, Phật. Trái lại, nếu không chịu tu hành, con người lại buông xuôi theo Vật
dục, làm nhiều điều gian ác thì sẽ bị thoái hóa xuống Cầm Thú. Còn nếu con người
cứ sống tự nhiên, không thiện lắm mà cũng không ác lắm, con người vẫn cứ mãi
mãi là con người sống trong vòng luân hồi sanh tử, thì rất uổng cho cái điểm
Linh quang mà Ðức Chí Tôn đã ban cho, biết chừng nào trở thành Tiên Phật, hưởng
an vui đời đời nơi Cực Lạc Niết Bàn.
C. 4:
Nửa người nửa Phật nơi mình anh nhi, là trong mình đứa trẻ vừa có Phàm tánh, vừa
có Phật tánh.
Giữa người và Phật chỉ cách nhau có một tấm màn mỏng
là Vô minh. Nếu còn Vô minh, tức là còn mê lầm thì con người mãi mãi là con người
nơi cõi thế gian, nếu qua khỏi Vô minh tức là Giác ngộ thì con người trở thành
Tiên, Phật.
Câu 5 - 6:
Ðại Từ Phụ từ bi tạo hóa,
Tượng mảnh thân giống cả Càn Khôn:
Ðại Từ Phụ: Ðấng Cha lành thiêng liêng của toàn cả
chúng sanh, đó là Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế.
Từ bi: Lòng thương yêu bao la, thương khắp chúng
sanh và luôn luôn muốn cứu giúp chúng sanh thoát khổ.
Tượng: Nắn đúc nên hình dáng. Mảnh thân: Tấm thân.
Càn Khôn: Trời Ðất, CKVT.
C.5 - 6:
Ðấng Ðại Từ Phụ mở lòng từ bi tạo hóa ra con người, nắn đúc ra thân thể có cấu
tạo giống như Trời Ðất.
Hễ Trời Ðất có gì thì con người có nấy, nên con người
được gọi là Tiểu Thiên Ðịa, Trời Ðất là Ðại Thiên Ðịa.
Trời có Tam Bửu là Nhựt, Nguyệt, Tinh; Ðất có Tam Bửu
là Thủy, Hỏa, Phong; thì con người có Tam Bửu là: Tinh, Khí, Thần.
Trời có Ngũ Khí; Ðất có Ngũ Hành: Kim, Thủy, Mộc, Hỏa,
Thổ; người có Ngũ Tạng: Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận.
Trời có Tứ Tượng; Ðất có Tứ phương; người có Tứ
Chi: 2 tay, 2 chân.
Trời có Thập Thiên Can; Ðất có Thập nhị Ðịa Chi;
người thì nắm đủ trong 2 bàn tay.
Câu 7:
Vẹn toàn đủ xác đủ hồn :
Vẹn toàn: Ðầy đủ hoàn toàn. Xác: Thể xác. Hồn: Linh
hồn.
C. 7: Con người có đầy đủ Linh hồn
và Thể xác.
Thể xác ở đây, nếu chúng ta hiểu rộng ra thì có 2
trường hợp: Nơi cõi trần thì thể xác phàm; nơi cõi thiêng liêng thì xác thân
thiêng liêng.
Khi con người còn ở trên cõi thiêng liêng thì con
người có xác thân thiêng liêng, còn gọi là Chơn thần, Nhị xác thân, bao bọc lấy
Chơn linh.
Khi con người đầu thai xuống cõi phàm trần thì con
người mang thêm xác thân phàm trần bằng xương bằng thịt, gọi là Ðệ Nhứt xác
thân. Còn xác thân thiêng liêng lúc đó ẩn trong xác thân phàm, làm khuôn viên
cho xác thân phàm.
Khi xác thân phàm chết, xác thân thiêng liêng xuất
ra, lấy y hình ảnh của xác thân phàm như khuôn in rập. Xác thân thiêng liêng
bao bọc linh hồn bay trở về cõi thiêng liêng.
Câu 8:
Xây cơ chuyển thế bảo tồn vạn
linh :
Cơ: Cái máy, cơ quan. Xây cơ: Xây dựng cơ quan.
Chuyển thế: Chuyển là dời đổi, Thế là đời. Chuyển
thế là làm cho đời thay đổi để tiến hóa cho tốt đẹp hơn. Sự đổi thay nầy không
ngoài khuôn luật tuần hoàn.
Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo nói về Cơ quan Chuyển
thế của Ðức Chí Tôn như sau:
"Bần đạo nhớ buổi Chí Tôn mới đến tỏ danh hiệu
Ngài, Ngài hứa với các môn đệ của Ngài buổi đầu tiên về Cơ quan Chuyển thế, làm
phân vân biết bao nhà trí thức, tìm hiểu 2 chữ Chuyển thế là gì?
Theo Triết Lý Học, định nghĩa 2 chữ Chuyển thế là thay đổi thời đại hiển nhiên ra thời đại khác,
hoặc không phù hợp, hoặc quá khuôn khổ nề nếp, nên quyết đoán thay đổi lập trường
thiêng liêng vì thời đại nầy đã định.
Chuyển nghĩa là sửa cũ ra mới. Lấy nghĩa lý đã định
hẳn ra, tức nhiên chúng ta nhận thấy các khuôn luật đạo
đức từ trước đến giờ để lại đều bị biếm trách cả, bởi vì đời quá hung tàn bạo
ngược, vô nhơn luân, tinh thần đạo đức không qui định tâm lý loài người không
tương quan cùng nhau, mất cả luật đồng sanh làm căn bản của loài người, luật đồng
sanh gần như bị hủy bỏ...
Bần đạo tìm hiểu định nghĩa 2 chữ Chuyển thế, là
thay đổi thời thế. Ðem kinh luật ra quan sát thấy mỗi thế kỷ, mỗi nguơn, từ trước
đến giờ, nhiều giai đoạn giống nhau một cách lạ lùng, những tấn tuồng nầy giống
tấn tuồng trước, không ngoài khuôn viên ấy...."
Bảo tồn: Gìn giữ cho còn. Vạn linh: Toàn thể các
Chơn linh trong CKVT, gồm đủ Bát hồn. Vạn linh đầu kiếp xuống trần làm chúng
sanh. Do đó, trong nhiều trường hợp, chúng ta hiểu Vạn linh là chúng sanh.
C. 8:
Xây cơ chuyển thế bảo tồn Vạn linh, nghĩa là: Xây dựng cơ quan Chuyển thế để bảo
tồn chúng sanh.
Cơ quan Chuyển thế mà Ðức Chí Tôn xây dựng là
ÐÐTKPÐ, tức là Ðạo Cao Ðài. Ðức Chí Tôn sẽ dùng tinh hoa của Giáo lý Nho giáo
làm nồng cốt cho công cuộc Chuyển thế.
Câu 9:
Xin gìn giữ Thánh hình thanh bạch:
Thánh hình: Thánh là thiêng liêng, Hình là hình thể.
Thánh hình là hình thể thiêng liêng của con người.
Ðức Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu tạo ra hình thể của con
người rất thiêng liêng huyền diệu, bởi vì hình thể nầy "giống cả Càn
Khôn", nên con người mới được gọi là Tiểu Thiên Ðịa.
Thanh bạch: Hoàn toàn trong sạch.
C. 9: Xin Ðức
Chí Tôn gìn giữ mảnh hình hài nầy cho được hoàn toàn trong sạch.
Câu 10:
Xin xá ân rửa sạch tiền khiên :
Xá ân: Ân xá, tha cho kẻ có tội để làm ơn.
Tiền khiên: Tiền là trước , Khiên là tội lỗi. Tiền
khiên là tội lỗi đã gây ra trong các kiếp sống trước .
C.10:
Xin Ðức Chí Tôn ban ơn tha tội cho nó và rửa sạch những tội lỗi trong các kiếp
sống trước của nó.
(Nó: Ý nói đứa bé được đem đi Tắm Thánh).
Câu 11:
Căn xưa ví dữ cũng hiền :
Căn xưa: Cái gốc rễ của thuở xưa, tức là nơi kiếp
trước . Ví: Nếu như. Dữ: Hung dữ. Hiền: Lành.
Căn xưa ví dữ: Nếu như kiếp trước là người hung dữ.
C. 11:
Nếu như kiếp trước nó là người hung dữ, xin Ðức Chí Tôn cho nó trong kiếp nầy
là người hiền lành.
Câu 12:
Dầu ra cửa tội đủ quyền cao siêu:
Cửa tội: Nơi tội lỗi, ý nói cửa Ðịa ngục hay cửa Âm
phủ. Dầu ra cửa tội: Mặc dầu mới ra khỏi nơi tội lỗi.
Ðủ quyền cao siêu: Có đầy đủ quyền tự chủ để lập
ngôi vị của mình cho được cao siêu.
C. 12:
Mặc dầu Chơn linh đứa bé mới ra khỏi nơi tội lỗi, nay chuyển kiếp làm người (do
Ðại Ân Xá của Ðức Chí Tôn) thì cũng xin Ðức Chí Tôn ban cho nó đầy đủ quyền tự
chủ để lập vị cao siêu.
TNHT/Q. 2/T-85: Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng
cơ:
"Bần đạo chẳng kể là Nguyên nhân, Hóa nhân hay
là Quỉ nhân, ví biết lập công thì thành Ðạo. Bần đạo để cho mỗi người tự do định
phận, lại tùy thế khó khăn mà gầy thành công quả,"
Qua bài Thánh ngôn trên, chúng ta thấy rằng: Dầu
cho các Chơn linh Quỉ vị (tức là ở nơi cửa tội), nay được Ðại Ân Xá của Ðức Chí
Tôn, cho chuyển kiếp đầu thai làm người, gọi là Quỉ nhân, nếu biết tu hành, lập
công bồi đức thì cũng đắc đạo như các Nguyên nhân hay Hóa nhân.
Câu 13:
Công nuôi dưỡng nâng niu khổ nhọc
:
Công nuôi dưỡng: Công lao khó nhọc của cha mẹ nuôi
dưỡng, dạy dỗ đứa bé từ lúc nhỏ cho đến lúc lớn khôn.
Nâng niu: Yêu mến chăm sóc giữ gìn cẩn thận.
Khổ nhọc: Khổ cực và nhọc nhằn.
Chín
chữ cù lao: Cù lao: Siêng năng khó nhọc để nuôi dưỡng con cái.
Chín chữ: Chín điều cha mẹ chăm sóc nuôi dưỡng.
Cù lao chín chữ, do thành ngữ Hán "Cửu tự cù
lao 九 字 劬 勞", nghĩa là cù lao chín chữ.
Đó cũng là chín điều khổ nhọc của cha mẹ:
1.- Sinh: Đẻ con.
2.- Cúc: Nâng niu.
3.- Phủ: Vuốt ve.
4.- Xúc: Cho bú.
5.- Trưởng: Nuôi cho lớn.
6.- Dục: Dạy dỗ.
7.- Cố: Trông nôm.
8.- Phục: Săn sóc dạy dỗ.
9.- Phúc: Che đỡ.
Cảm nghĩa từ huyên lánh cõi trần,
Cù lao chín chữ khó đền ân.
* Thơ Thái Phong.
Cù lao chín chữ ơn chưa trả,
Nhũ bộ ba năm nghĩa chửa bồi.
* Thơ Thiên Vân.
C. 13: Công lao nuôi dưỡng và nâng niu chăm sóc đứa
bé thật là khổ cực và nhọc nhằn.
Câu 14:
Phép thương yêu cũng học nơi Thầy:
Phép: Pháp luật. Thương yêu: Bản chất của Ðức Chí
Tôn. Kỳ Khai Ðạo nầy, Ðức Chí Tôn giao ước với Nhơn loại có 4 chữ: Bác ái -
Công bình, tức là: Thương yêu và Công chánh, nên mới nói rằng: Luật Thương
yêu và Quyền Công chánh. Phép thương yêu: Luật thương yêu.
Ðức Chí Tôn giáng cơ dạy rằng:
"Thầy chỉ một lòng mơ ước cho các con biết
thương yêu nhau trong Thánh đức của Thầy. Sự thương yêu là chìa khóa mở Tam thập
lục Thiên, CLTG và Bạch Ngọc Kinh. Kẻ nào ghét sự thương yêu thì chẳng hề qua
khỏi cửa Luân hồi."
"Sự thương yêu là giềng bảo sanh trong CKTG.
Có thương yêu, nhơn loại mới hòa bình, Càn Khôn mới an tịnh. Ðặng an tịnh mới
không thù nghịch nhau, mới giữ bền cơ Sanh hóa." * TNHT. II. 43-69.
Thầy: Ðức Chí Tôn tự xưng mình là Thầy để dạy Ðạo
cho các Tín đồ, và gọi các Tín đồ là môn đệ.
-:- Đức Chí Tôn dạy chữ Học để làm Tiên Phật như thế
nào ?
Học là thu nhận kiến thức hay luyện tập kỹ năng do
thầy dạy, hoặc theo sách vở mà bắt chước. Như: Học chữ, học nghề, học giáo lý.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu dạy:
“ Nếu làm Tiên, Phật đặng dễ dàng thì cả thế gian,
miễn có học chút ít thì đã đặng làm Tiên, Phật rồi, vì luân hồi đâu có phòng
sanh sanh tử tử.”
Cần lo học Ðạo chí đừng lơi,
Phú quý sương tan lố bóng Trời.
* Thánh Thi Hiệp Tuyển.
Mái tóc điểm sương chưa học Ðạo,
Hoạ kề dầu hối khó than van.
* Thánh Thi Hiệp Tuyển.
C. 14: Phải
học nơi Ðức Chí Tôn về Luật thương yêu, bởi vì lòng thương yêu của Ðức Chí Tôn
thì vô cùng vô tận.
Câu 15-16:
Sanh nơi đây, ở nơi đây,
Trăm năm là tuổi đủ đầy mạng căn:
Trăm năm là tuổi: Do câu thành ngữ chữ Hán: Nhân
sinh bách tuế vi kỳ, nghĩa là: Người ta sống một trăm năm là kỳ hạn. Người mà sống
trên 100 tuổi thì rất hiếm.
Mạng căn: Hay “Mệnh căn”.
Mạng (mệnh): Vận mệnh mà Trời định cho mỗi người theo nghiệp.
Căn: Gốc rễ.
Mạng căn, như chữ “Mệnh căn 命 根”, là cái căn nghiệp của mỗi người
tạo thành cái mạng sống cho kiếp hiện tại, tức là những việc làm thiện, ác của
kiếp trước quyết định cái mạng sống tốt đẹp hay xấu xa cho kiếp hiện tại. Mỗi
người có một địa vị, trình độ hay hoàn cảnh khác nhau là vì mạng căn của mỗi
người khác nhau.
Sanh nơi đây, ở nơi đây,
Trăm năm là tuổi đủ đầy mạng căn.
* Kinh Tận Độ.
Ví biết mạng căn là số định,
Gẫm mình vô tội cũng thâm bâu.
* Thơ Hộ Pháp.
Tuy đã hiểu mạng căn hữu số,
Cuộc bi hoan ly hiệp nỗi đau lòng.
* Văn Tế Đốc Học.
C. 15 - 16:
Ðây là 2 câu kinh căn dặn và nhắc nhở tâm thức của đứa bé đang thọ phép Tắm
Thánh: Ðược sanh ra ở nơi đây, sống ở nơi đây, hạn định của kiếp sống thường là
100 tuổi, với đầy đủ mạng sống và số phận.
Câu 17:
Chốn hồng trần quen lằn gió bụi:
Hồng trần: Bụi đỏ, chỉ cõi trần. Hồng là đỏ, trần
là bụi.
紅 塵
Hồng: Màu đỏ. Trần: Bụi bặm.
Hồng trần là bụi hồng. theo Phật, chữ bụi không có
nghĩa là đất cát, mà chỉ cho những việc rối rắm, phiền não làm cho con người ô
nhiễm.
Gió bụi: Phong trần, chỉ sự gian nan vất vả ở đời.
Nghĩa bóng: Hồng trần chỉ chốn thế gian.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu:
"không ăn mà sống, không mặc mà lành, các con
lại không chịu, nghe điều cám dỗ, mê luyến hồng trần, ăn cho phải bị đọa, dâm
cho phải bị đày, nên chịu nạn áo cơm, dục quyền cầu lợi."
Chốn hồng trần quen lằn gió bụi,
Cảnh phù ba may rủi cũng duyên.
* Kinh Tận Độ.
Nhiều kiếp đã đầu thai biết mấy,
Xuống hồng trần khuyến dạy thương sanh.
* Xưng Tụng Công Đức.
Hồng trần là biển khổ con ôi,
Cực nhọc đời kia quá ngán đời.
* Đạo Sử.
C. 17:
Nơi cõi trần, con người phải chịu đựng cho quen nhiều nỗi gian nan vất vả.
Câu 18:
Cảnh phù ba may rủi cũng duyên :
Phù ba: Phù là nổi, ba là làn sóng. Phù ba là làn
sóng nổi, tức là làn sóng nổi lên rồi liền hạ xuống.
Cảnh phù ba: Cảnh đời luôn luôn thay đổi mau chóng
như làn sóng.
Chốn hồng trần quen lằn gió bụi,
Cảnh phù ba may rủi cũng duyên.
* Kinh Tận Độ.
Cơ Đạo lâu dài dường tuế nguyệt,
Tuồng đời chớp nhoáng tợ phù ba.
* Thơ Thông Quang.
Duyên: Có hai nghĩa :
緣
1. - Duyên là mối dây ràng buộc vô hình từ định sẳn
từ kiếp trước, tức phần do Trời định dành cho mỗi người về quan hệ tình cảm giữa
vua tôi, bè bạn hay nam nữ, vợ chồng hoà hợp, gắn bó.
Như: Duyên cá nước, duyên ưa phận đẹp, ép dầu ép mỡ
ai nỡ ép duyên.
Những ngỡ trao duyên vào Ngọc các,
Nào dè phủi nợ xuống Tuyền đài.
* Thánh Thi Hiệp Tuyển.
Rủi duyên gặp phải thường phu,
Nhành xuân thì trọng, gương thu dở cầm.
* Nữ Trung Tùng Phận.
2.- Duyên, theo Phật, mọi thứ giúp cho nhân sinh ra
quả. Từ nhân đến quả đều là do sức mạnh của Duyên, nếu không có duyên, thì nhân
không thể sinh thành quả.
Như: Duyên nghiệp, duyên kiếp, duyên phận.
Thánh giáo Thầy có câu: “Ðạo cốt để cho kẻ hữu
duyên. Những kẻ nào đã làm môn đệ của Tà Thần Tinh Quái thì không thế gì làm
môn đệ Thầy đặng.”
Ấy là nợ trước còn mang,
Duyên kia chưa dứt còn đang thưởng đền.
* Kinh Sám Hối.
Mùi đạo gắng giồi lòng thiện niệm,
Duyên may tìm lại phẩm ngôi xưa.
* Thánh Thi Hiệp Tuyển.
Có Ðạo trong muôn ngồi cũng đủ,
Không duyên một đứa cũng là chìm.
* Thánh Thi Hiệp Tuyển.
C. 18: Cảnh
đời luôn luôn thay đổi mau chóng, hết may tới rủi, hết rủi tới may, cũng do nơi
những mối dây ràng buộc từ trước (không ra ngoài khuôn Luật Nhân quả).
Câu 19:
Ðã gan dốc kiếm diệu huyền :
Gan: Can đảm, dám đương đầu với khó khăn nguy hiểm.
Dốc kiếm: Tuốt kiếm ra khỏi vỏ sẵn sàng chiến đấu.
妙 玄 : Diệu huyền
Diệu: Tinh xảo, khéo léo. Huyền: Sâu kín.
Diệu huyền, bởi chữ “Huyền diệu 玄 妙”, dùng để chỉ sự khéo léo sâu
kín, hay những sự việc thần bí, mầu nhiệm, không thể dùng trí phàm hiểu được.
Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Ngũ Nương Diêu Trì có
câu:
“Đây là ngọn gió bấc sắp thổi cho cả con cái Chí
Tôn để am hiểu máy huyền linh cơ tạo, hầu nêu cao phẩm hạnh của mỗi cá nhân. Đó
là huờn thuốc diệu huyền của Chí Tôn để sẵn, hầu đem 92 ức nguyên nhân về chỗ
cũ. Nếu để qua cơ hội, khó mong tìm lại được, vì buổi chuyển luân pháp lý thì mặt
Thiên điều phải giữ đúng”
Nam Mô Tam Giáo diệu huyền,
Tuyệt luân Bát Nhã đưa thuyền độ vong.
* Kinh Tận Độ.
Đưa tay vịn phép diệu huyền,
Ngọc Hư lập vị Cửu tuyền lánh chơn.
* Kinh Tận Độ.
Phất phơ đưa phướn diệu huyền,
Trông vơi thấy khách cửu tuyền rậm chơn.
* Lục Nương Giáng Bút.
Kiếm diệu huyền: Cây gươm huyền diệu, ý nói cây
gươm trí huệ. Người tu cần phải dùng cái trí huệ của mình để trừ diệt vô minh
và phiền não.
Nói tỷ dụ, cái trí huệ như cây kiếm huyền diệu, phiền
não và vô minh như những tên giặc cướp, phải dùng cây kiếm trí huệ mới diệt trừ
được chúng.
Theo nhà Phật, Trí huệ
được ví như một lưỡi gươm (hay lưỡi kiếm) sắc bén, có thể chiến thắng được giặc
thất tình lục dục, và có thể cắt đứt hết mọi phiền não trói buộc vào con người.
Kinh Duy Ma Cật: Dĩ trí huệ kiếm phá phiền não tặc,
nghĩa là lấy trí huệ như một lưỡi gươm phá giặc phiền não.
Cứ nương dưới máy linh cơ Tạo,
Gươm huệ đưa trị xảo trừ
tà.
* Kinh Thế Đạo.
Cầm gươm huệ chặt tiêu oan
trái,
Dìu độ quần sanh diệt quả nhân.
* Thánh Thi Hiệp Tuyển.
Quơ gươm huệ trái oan
dứt tuyệt.
Dốc một lòng già quyết vào non,
* Thơ Đức Hộ Pháp.
C. 19: Ðã có can đảm quyết chí tu
hành để đạt được trí huệ, thì phải dùng cái trí huệ nầy như một cây kiếm huyền
diệu để diệt trừ vô minh và phiền não.
Hai câu 18 và 19 cũng để nói với
đứa bé đang chịu Phép Tắm Thánh rằng.
- khi lớn lên sẽ phải chịu
nhiều nỗi vất vả nơi cõi trần.
- nhưng phải rán lo tu hành
cho đạt được trí huệ thì mới dứt được phiền não.
Câu 20:
Sanh sanh là phận, hiền hiền là
công :
“Sinh sinh là phận”.
Sanh sanh (sinh sinh): Sự sinh nở ra mãi, như sinh sinh bất tức sinh nở ra
mãi không thôi. Phận: Danh phận hay bổn phận.
Sanh sanh là phận tức là sự sinh sôi nẩy nở ra mãi là một bổn phận với
Trời đất, hay nói cách khác, là một thiên chức của con người.
Sở dĩ có vạn vật là nhờ có sự sinh của Trời đất.
Cho nên có thể nói rằng:
Thiên địa chi đại đức viết sinh 天 地 之 大 德 曰 生, nghĩa là đức lớn của Trời đất
là sự sinh.
Theo Dịch học, sự sinh hoá của Trời đất, vạn vật do
âm dương, cơ ngẫu phối hợp mà thành.
Trong Hệ Từ hạ có viết: "Thiên địa nhân
uân, vạn vật hoá thuần, nam nữ cấu tinh, vạn vật hoá sinh
" 天 地 氤 氳 萬 物 化 醇,
男 女 搆 精,
萬 物 化 生 ".
Nghĩa là khí Trời đất nghi ngút trên dưới hoà hợp
nhau, vạn vật do khí tinh thuần ấy mà hoá ra, nam nữ phối giao mà sinh ra mãi.
Người là một phần trong vạn vật, nên phải theo lẽ
trời mà biến hoá, đó là thiên chức của con người.
Đã gan dốc kiếm diệu huyền,
Sanh sanh là phận, hiền hiền là công.
* Kinh Tận Độ.
Hiền hiền là công là rèn tập trở nên hiền lương, nhân nghĩa là một
công phu của con người.
Hiền hiền: Hiền lương, nhân nghĩa. Là Công: Là một
công phu.
Theo Dịch học, cái đức lớn của Trời đất là sự sinh,
thì đạo người phải theo đạo Trời đất mà bồi dưỡng sự sinh.
Đạo Trời có bốn đức: Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh (元, 亨, 利, 貞); Đạo người cũng bởi đó mà
có bốn đức là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí (仁, 義, 禮, 智).
Như vậy, Nhân (hay hiền) là đầu hết các điều thiện,
là gốc lớn của sự sinh hoá trong Trời đất. Vậy hợp
với cái đức sinh là hiền là thiện, trái
với đức sinh là ác.
Đã gan dốc kiếm diệu huyền,
Sanh sanh là phận, hiền hiền là công.
* Kinh Tận Độ.
C. 20: Sống
và sanh sản thêm ra là bổn phận, dùng sự hiền lành và tài giỏi để lập công với
đời.
Câu 21-22:
Ðừng thối chí ngã lòng trở gót,
Ðể cho đời chua xót tình thương :
Thối chí: Mất hết ý chí, nãn chí, không còn muốn đeo đuổi việc đang làm vì gặp khó
khăn trở ngại
Ngã lòng: Không cò giữ được ý chí, quyết tâm.trước thử thách khó khăn.
Thối chí ngã lòng, đồng nghĩa với chữ "Thối chí nãn lòng", là mất hết ý chí, quyết tâm, không còn muốn theo
đuổi việc đang làm vì gặp phải khó khăn, trở ngại.
Đừng thối chí ngã lòng trở gót,
Để cho đời chua xót tình thương.
* Kinh Tận Độ.
Chua xót: Chua: Có vị như vị của chanh, giấm.
Xót: Có cảm giác đau rát.
Chua xót là đau đớn xót xa một cách thấm thía.
Thánh giáo Thầy trong Đạo Sử có đoạn:
"Hiếu, Nhiều, hai con phải sắm sửa dọn nhà về
Tây Ninh, từ đây Cư, Tắc phải lo Ðạo, các con phải đành chịu khổ cực cùng Thầy
như hai đứa nó vậy mới đáng con cái Thầy. Thầy lấy làm chua xót mà Ðạo là trọng
mới biết liệu sao."
Đừng thối chí ngã lòng trở gót,
Để cho đời chua xót tình thương.
* Kinh Tận Độ.
Thương người nghĩ bạn lòng chua xót,
Tưởng vợ vì con dạ ngậm ngùi.
* Thiên Thai Kiến Diện.
C. 21-22:
Hai câu kinh nầy cũng để căn dặn đứa bé Tắm Thánh: Ðừng thấy cõi trần có nhiều
khổ đau phiền não mà thối chí ngã lòng lui bước trở lại cõi TL
(ý nói chết), để cho cha mẹ và những
người thân phải đau đớn xót xa vì thương tiếc.
Câu 23:
Trăm năm thọ khảo vĩnh trường :
Thọ khảo, như chữ “Thụ khảo 受 拷”, là vâng chịu sự khảo duợt.
Như: Người tu phải thọ khảo mơi xứng vị.
Một vật muốn trơn muốn bén, phải tốn nhiều công mài
dũa; một sự việc gặt hái được kết quả, phải lắm công nhiều sức, Ca dao có câu: "gắng
công mài sắt, Có ngày nên kim".
một con người muốn nên tài năng hiền đức, phải nhiều
công phu học tập, phải rèn tâm luyện tánh, phải chịu nhiều thử thách gian lao,
phải chịu lắm cơn khảo duợt, mới phân được vị thứ, mới rõ được tài năng. "Có
chí thì nên". Có công mài sắt, do câu thành ngữ "Có công mài sắt có
ngày nên kim", ý muốn nói có ý chí kiên nhẫn sẽ đạt thành kết quả.
Có công mài sắt đồng nghĩa với thành ngữ "Ma chử thành châm 磨 杵 成 針", ý nghĩa mài nên kim.
Thành công nhờ có chí bền,
Có công mài sắt nên kim có ngày.
* Thơ Thiên Vân.
Trong quyển Thiên Đạo, hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và
Phan Trường Mạnh có viết:
"Sự thử thách như luồng giông tố. Ai đã trải
qua mà cái Tâm chẳng đổi, Ý chẳng dời, thì mới mong đạt đường Đạo được."
Như vậy, đời người trăm tuổi phải thọ khảo dài lâu
để có cơ hội rèn tâm luyện tánh, tập lòng nhẫn nại, giữ nghĩa thuỷ chung và nhất
là gặt hái nhiều bài học hay trên đường tiến hoá về đạo đức.
Sự khảo còn là một dịp để người tu trả xong nợ oan
trái tiền khiên, một cơ hội nhồi hết căn quả trong một kiếp sinh phải trả hầu
được rãnh rỗi, nhẹ nhàng vĩnh viễn an vui nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống
Trăm năm thọ khảo vĩnh trường,
Thuận căn thuận mạng đôi đường cao thăng.
* Kinh Tận Độ.
Tuyển thăng hồi hướng cầu Di Lạc,
Thọ khảo định thần niệm Chí Tôn.
* Thơ Huệ Phong.
- Vĩnh trường: 永 長 Vĩnh là lâu dài, mãi mãi; trường là lâu dài. Vĩnh trường là lâu dài
mãi mãi.
Như: Xây dựng một công trình không kiên cố mà đòi hỏi
sử dụng vĩnh trường thì không bao giờ được.
Trăm năm thọ khảo vĩnh trường,
Thuận căn thuận mạng đôi đường cao thăng.
* Kinh Tận Độ.
C. 23:
Ðây là câu cầu chúc đứa bé sống lâu: Ðời người sống được trăm tuổi là trường thọ.
Câu 24:
Thuận căn thuận mạng, đôi đường
cao thăng :
"Căn mệnh".
Căn: Cái gốc, rễ. Mạng (mệnh): Mạng, hay vận số của con người,
nghĩa bóng sự sống.
Căn mạng như chữ "Căn mệnh 根 命", là gốc của sự sống con
người.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu:
"Chưa ai hiểu đặng một người tài tình quán
chúng, trí não cao sâu phải hạ mình làm người ngu dốt. Chưa có quyền năng nào
mà đem một đứa ngu dốt lên làm ông Tể Tướng triều đình. Hàng phẩm căn mạng đều
do Chí Tôn sở định."
Bao nhiêu lỗi trước tua kềm sửa,
Căn mạng nên Ta phải để lời.
* Đạo Sử.
Thuận căn: Căn là cái gốc rễ, tức là những
việc làm trong kiếp trước tạo thành cái nghiệp quyết định số phận của mình. Thuận
căn là thuận theo số phận của mình để trả cho dứt nghiệp.
Thuận mạng: Thuận theo cái mạng sống của mình do Ðức
Chí Tôn ban cho, tức là thuận theo đức háo sanh của Ðức Chí Tôn.
Cao thăng: Phẩm vị được đưa lên cao hơn.
C. 24:
Phải thuận theo số phận của mình để trả dứt nghiệp (mà không tạo ra nghiệp mới),
hoặc phải thuận theo đức háo sanh của Ðức Chí Tôn, cả hai đường đều giúp cho
Chơn linh được cao thăng phẩm vị nơi cõi thiêng liêng.
PHÉP TẮM THẮNH: Ghi Chú PHẦN THỰC HÀNH :
— > Cầu nguyên ĐCT+ các Đấng
TL+ ĐHP
— > Đọc Kinh TẮM THÁNH
— > Rải nước Maha. là một trong những phép bí tích của Đạo Cao Đài, tức
dùng nước Ma Ha thuỷ rưới lên đầu đứa bé để làm phép “Tắm Thánh”.
Muốn được Tắm Thánh, cha mẹ đứa bé phải là một tín
đồ của Đạo và phải đem đứa bé ấy vào Thánh Thất để một vị chức sắc hành pháp Tắm
Thánh cho đứa bé.
Đứa bé đã được Tắm Thánh rồi, về mặt hữu hình, thì
đứa bé được Hội Thánh công nhận là con nhà Đạo, ghi tên vào Bộ sanh và cấp cho
một giấy chứng nhận Tắm Thánh, về mặt vô vi, thì đứa bé được hai Đấng phụ mẫu
chơn linh nhìn nhận con nhà Đạo Cao Đài, và được các Đấng Thiêng liêng tẩy trược
chơn thần để thân thể được an lành và tinh thần sáng suốt.
Đứa con nít được một tháng sắp lên phải đem đến
Thánh Thất sở tại mà xin làm lễ "Tắm Thánh" và ghi vào bộ sanh của bổn
đạo. * Tân Luật.
NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỀ TÁT MA HA TÁT... - Niệm 3 lần.
Luận Giải. * HT Lê Văn Năm.
Home. Mục Lục: [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ] [ 9 ] [ 10 ] [ 11 ] [ 12 ] [ 13 ] [ 14 ] [ 15 ] [ 16 ] [ 17 ] [ 18 ] .