NHÌN LẠI QUÁ KHỨ. * Quang Thông.

1
- Những bậc Tiền bối Cao Đài gồm những nhà chí sĩ yêu nước thương nòi.
Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Đức là môt trong mười hai môn đồ đầu tiên của Đức Chí Tôn, có viết trong lời giới thiệu quyển Đại Đạo Sử Cương như sau:
"…Tác giả nhìn thấy được tâm sự của giới trí thức, nhứt là tâm sự của các nhà chí sĩ thời tiền sử Đạo đã vì ôm mối hận nước nhà bị đô hộ mà hết sức cố gắng tìm lối thoát cho dân tộc. Vì vậy mà có sự hoạt động chống chế độ thực dân không ngừng. Những bậc tiền bối sáng lập Đạo Cao Đài cũng thuộc trong nhóm chí sĩ này…"
Điển hình cho những bậc chí sĩ trong Đạo Cao Đài là người thanh niên Phạm Công Tắc với thời niên thiếu, tiểu sử Ngài còn ghi lại như sau:
"...Ngài sinh vào năm 1890, thời mà thực dân Pháp đã đặt vững nền đô hộ, trên khắp đất nước Việt Nam. Ngài lớn lên trong cảnh vong quốc giữa một cái xã hội đầy dẫy bất công, dân chúng rên siết dưới những bóc lột, áp bức của quân ngoại xâm, khác màu da khác sắc tóc.
Trước cảnh nước mất chủ quyền, dân sống trong vòng nô lệ, Ngài đã sớm giác ngộ. Tuy còn nhỏ tuổi, mà nhiều đêm Ngài đã thao thức nghĩ đến cách làm sao cho đồng bào cũng đứng lên phá tan xiềng xích, để đòi lấy quyền sống một cuộc đời tự do, độc lập, hạnh phúc.
Trận chiến tranh Nhật-Nga xảy ra vào năm 1905 kết cục bằng cuộc thắng vẻ vang của Nhật là một kích thích lớn lao cho Ngài cũng như cho hầu hết dân Việt Nam có ý thức tranh đấu hồi giờ.
Năm 1906, Ngài bắt đầu tham gia vào phong trào Đông du mà hai nhà lão thành cách mệnh Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh đang cho người vận động tuyên truyền và khuyến khích khắp nơi. Năm ấy Ngài 17 tuổi, đang học năm thứ hai trường Chassekoup Laubat. Lúc đó phong trào Đông du ở Saigon do hai ông Dương Khắc Ninh và Gilbert Chiếu, lãnh đạo hai ông đã dẫn đạo ba tốp xuất dương. Tốp thứ tư có tên Ngài Đương hồi niên thiếu đầy lòng phấn khởi bồng bột, Ngài nuôi trong lòng bao nhiêu mộng đẹp viễn phương. Nhưng tốp thứ tư không có cái may mắn như ba tốp trước. Màn bí mật bị khám phá. Mật thám Pháp đến khám sở Minh tân công nghệ là chỗ hay lui tới của ông Ninh, Chiếu mà cũng là trụ sở của phong trào Đông Du tại Saigon. Nhờ được ông Ninh bình tĩnh lẹ tay hành động nên đã tiêu hủy kịp thời hết mọi tài liệu, thành ra tuy bị bại lộ mà không ai bị lôi thôi bắt bớ chi cả. Tuy vậy mật thám Pháp đã chú ý, luôn luôn cho người theo dõi, dò xét các tay lãnh đạo và chính Ngài cũng bị chúng để ý. Nên năm đó, Ngài nghĩ học, về quê ở Tây Ninh tạm tránh những con mắt dòm ngó...
Sau kỳ dự định Đông Du lở dở, Ngài trở về quê nhà một thời gian, rồi lại lăn mình vào trường tranh đấu. Ngài hoạt động trong bí mật, viết cho nhiều báo như: Công Luận, La Cloche fêlée, La voix libre, Lục tỉnh Tân văn, Nông cổ Mím đàm,v.v… với bút hiệu Ái Dân, Tây Sơn Đạo,..."
Đức Hộ Pháp

Đây là những tờ báo đề cao tinh thần dân tộc Việt, nói lên những bất công trong xã hội thời đó...
Mãi đến năm 1925, Đức Chí Tôn đến khai Đạo, Đức Hộ Pháp có thuật lại sự kiện nầy như sau:
"…chính Bần Đạo buổi nọ, Đại Từ Phụ nói với Bần Đạo một lời thiết yếu: "Tắc, dâng cả mảnh thân con đặng Thầy tạo Đạo cứu Đời con có chịu chăng?"
 
Bần Đạo trả lời với Ngài một cách quả quyết rằng: " - Nòi giống con còn nô lệ, nước nhà còn lệ thuộc thì làm thế nào con tu cho đặng".
Ngài cười nói: " - Nhưng điều ấy các con làm không đặng đâu, để đó cho Thầy". (Thuyết Đạo ĐHP ngày 8 tháng Giêng Canh Dần 1950).
 
Đoạn nầy nói lên lời hứa của Đức Chí Tôn rằng: Việc giành lại độc lập tự do cho đất nước VN, các con làm không được đâu mà hãy để đó cho Thầy lo.
 
Còn một vị Tiền bối khác là Ngài Phan Khắc Sửu đến dự đàn cơ Đức Chí Tôn. Ngài có làm sẳn một bài thi đem đến đốt trước dàn, và Đức Chí Tôn đã họa lại bài thi của Ngài như sau:
" Cao Đài Tiên Tưởng hỡi Ông ơi,
Linh hiển sao không cứu giống nòi,
Trăm họ điêu linh thân cá chậu,
Muôn dân đồ thán phận chim lồng.
Coi mòi diệt chủng càng đau dạ,
Thấy cảnh vong bang bắt não lòng.
Nạn nước ách dân như thế ấy,
Ngồi mà tu niệm có yên không ?
* Phan Khắc Sửu. 

Đức Chí Tôn đã họa vận lại ngay :
"Cơ Trời khó tỏ lắm con ơi,
Nghiệp quả tiền khiên của giống nói.
Bởi luyến mồi thơm cam cá chậu,
Vì ganh tiếng gáy chịu chim lồng.
Trời khai Đại Đạo nên yên dạ,
Đất dậy phong ba cứ vững lòng.
Gắng trả cho rồi căn nợ ấy,
Tu mà Cứu Thế dễ như không.
* Cao Đài Thượng Đế.
 
       Đức Chí Tôn còn cho một vài người yêu nước bài thi:
"Yến Tử Hà xưa lúc vận cùng, 
Còn mang dép rách đến Quang Trung,
Nay con chưa rõ thông đường Đạo, 
Cứ ngóng theo chơn Lão tháp tùng." 
Điển tích Yến Tử Hà là tôi nước Hàn, nước Hàn bị Tần Thủy Hoàng đánh chiếm, Yến Tử Hà đến đất Quang Trung là nơi Lưu Bang khởi nghiệp diệt nhà Tần.
Đức Chí Tôn ngụ ý: - Nước các con bị người đô hộ nay muốn giành độc lập thì hãy theo Thầy cuối cùng sẽ đoạt lại nền độc lập thực sự cho nước nhà…
 
Tổng kết các lời dạy của Đức Chí Tôn cho các vị tiền bối nại lý do không đi tu được vì nước mất nhà tan là:
Dân tộc các con còn phải qua giai đoạn đền bồi nghiệp quả nên dầu các con có xả thân tranh đấu cũng không thành công đâu, vậy hãy để Thầy lo việc đó cho, các con cứ theo Thầy mở Đạo lo tu hành đi rồi có ngày các con sẽ chẳng những cứu nước các con mà còn cứu cả thế gian nầy nữa...
 
2 - Bản Tuyên ngôn Khai Đạo.
Ngày 23 tháng 8 năm Bính Dần (29-9-1926), ông Cựu Thượng Nghị Viện Lê Văn Trung vâng Thánh ý hiệp với chư Ðạo Hữu hết thảy là 247 người tại nhà ông Nguyễn Văn Tường đứng tên vào Tịch Ðạo để khai Ðạo với Chánh Phủ.
 
Tờ Khai Ðạo đến ngày Mùng một tháng chín (07-10-1926) mới gởi lên Chánh Phủ cho quan Nguyên Soái Nam Kỳ là ông Le Fol. Trong tờ nầy có 28 người đứng tên thay mặt cho cả chư Ðạo Hữu có tên trong Tịch Ðạo.
Phần cuối tờ khai Đạo ghi câu:
"Chúng tôi thay mặt cho nhiều người An Nam, mà đã nhìn nhận sở hành của chúng tôi và đã ký tên vào tờ Ðạo Tịch ghim theo đây, đến khai cho quan lớn biết rằng: Kể từ ngày nay chúng tôi đi phổ thông Ðại Ðạo khắp cả hoàn cầu.
Chúng tôi xin quan lớn công nhận Tờ Khai Ðạo của chúng tôi".
 
Như vậy, đây không phải là tờ xin phép mở Đạo mà là một tuyên ngôn Khai Đạo mà thôi. Chánh quyền Pháp lúc đó cũng dễ dàng chấp thuận cho phép Đạo hoạt động chớ không có ý gì ngăn cản việc truyền Đạo.
 
3 - Mối tương quan giữa Đạo Cao Đài và nhà cầm quyền thuộc địa Pháp.
Trong thời gian từ 1925 đến 1945, có vài vị Toàn quyền, và Thống soái Nam Kỳ người Pháp có cảm tình với đạo Cao Đài, và cho tự do truyền giáo điển hình như: Thống đốc Le Fol (1926), Toàn quyền Robin có 3 lần đảm nhiệm chức vụ nầy vào các năm (1928), (1930-1931), và (1934-1936). Vị Toàn quyền nầy cho Đạo Cao Đài tự do hội họp tự do truyền Đạo nên khi mãn nhiệm ngày 9-9-1936, có cả phái đoàn Hội Thánh và Đạo hữu Cao Đài khoảng trên ngàn người đến bến tàu Sàigòn tiển đưa Ngài Robin và gia đình xuống tàu về xứ.

Trái lại cũng có vài giới chức Pháp rất gắt gao với đạo Cao Đài như Toàn quyền Pierre Pasquier (1928-1934). Paul Doumer tên gọi đầy đủ Joseph Athanase Doumer (sinh ngày 22 tháng 3 năm 1857 tại Aurillac, Cantal. Chủ tịch Thượng Viện Pháp (1927). Ông làm Toàn quyền Đông Dương từ năm 1897 đến năm 1902. Đắc cử Tổng thống Cộng hòa Pháp ngày 13 tháng 5 năm 1931, ngày 6 tháng 5 năm 1932, ông bị sát thủ bắn chết, bởi một bác sĩ người Nga tị nạn chính trị tại Pháp, tên là Paul Gorguloff.
Toàn quyền Pierre Pasquier
Tổng thống Paul Doumer

Sau khi các vị nầy qua đời có giáng cơ nơi Tòa Thánh cho biết như sau:
Đàn cơ ngày 11-9-1934.
"Paul Doumer,
Kính chào quí Ngài,
...Tôi đã thiếu một bổn phận mật thiết trước khi chết, đó là không chấp thuận đúng lúc sự tự do tín ngưỡng của quí Ngài.
...Nhưng quí vị có biết chăng thật là khó khăn cho việc thay đổi lòng dạ con người. Họ có chịu nghe tôi nói không ? Sự thiếu sót bổn phận thiêng liêng ấy đối với Đấng Thượng Đế làm tôi trả giá 12 năm đời sống của tôi (Tuổi thọ giảm 12 năm).
Tôi đến để chỉ nói với quí Ngài như thế.
Cáo biệt."
 
Kế đó là Toàn quyền Pierre Pasquier, Toàn quyền Đông Dương từ 1928 đến 1934, Ông nầy quyết tâm tiêu diệt Đạo Cao Đài nên làm giả nhiều hồ sơ đem về Pháp để chứng minh với chánh phủ Pháp là Đạo Cao Đài làm chánh trị chống Pháp. Pasquier đi máy bay về Paris, đến Marseille còn đang bay trên bầu trời bổng nhiên phi cơ phát cháy nổ tung, Pasquier cùng gia đình và toàn bộ hồ sơ ngụy tạo đều bị cháy tan ra tro... Sau đó Pasquier có giáng cơ tại Tòa Thánh vào ngày 18-8-1936 như sau:
"Pierre Pasquier,
Tôi nói tiếng An Nam.
Tôi đã cầm đặng một cuốn sách Nho, học thông đạo lý.
Cái tư tưởng của tôi buổi nọ, nó thiên về bên Khổng giáo chớ không phải hướng qua bên Phật Đạo. Tôi càng suy xét thì lại lấy làm lạ vì cớ nào tôi lại dùng nhà Thiền toan phá Đạo Cao Đài buổi nọ. Quái dị thay !
… Ôi quan trường ! Ôi nha lại ! Vì mi mà làm cho ta phải đui mắt, linh hồn phạm tội nghịch ý Chí Tôn. Thiên điều tàn sát. Hận thay ngôi vị đế vương là đao kiếm trừ mạng linh hồn mà chớ. Gớm thay! Ghê thay !
Thi:
Vương bà bửu ngôi thị ngục hình,
Thiên lao như thử tấc công khanh.
Đồ thân phát phối cầm dân mạng,
Y phục cân đai thị tử thành.
Thăng."
 
Cũng vào ngày 8-8-1934, Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn có giáng cơ nói về cái chết của Toàn quyền Pasquier:
"…Những kẻ nào dám vi phạm vào Thiêng liêng, dù xa dù gần, đều phải bị trừng phạt, Hãy xem tên Toàn Quyền Pasquier và nhiều kẻ khác bị giết chết bởi phán quyết thiêng liêng. Không một ai có thể tránh thoát những cơn thịnh nộ của Trời nếu chống lại Đấng Thượng Đế. Hãy nghe theo và tin tưởng sự công bằng của Thượng Đế…"
Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn
(Victor Hugo)

Xem vậy luật Thiên điều cũng có những hình phạt sẳn dành cho những kẻ cố tâm phá hoại Đạo Trời.
Đây là bằng chứng hiển nhiên còn ghi lại qua những trang Đạo sử.
 
4 - Mối tương quan giữa đạo Cao Đài và Việt Nam Cộng Hòa.
Đối với nền Đệ I Cộng Hòa: Vào năm 1954, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc là vị cố vấn tối cao của hoàng đế Bảo Đại. Khi Ông ngô Đình Diệm nhận chức Thủ Tướng và thệ nguyện trước bàn thờ Chúa có sự chứng kiến của Đức Hộ Pháp. Rồi sau đó Thủ Tướng Ngô Đình Diệm truất phế vua Bảo Đại lên làm Tổng Thống, dĩ nhiên Đức Hộ Pháp không ủng hộ việc làm nầy. Sự rạn nứt giữa Cao Đài và Đệ I Cộng Hòa bắt đầu từ đó.

Kế đến tướng Cao Đài là Trình Minh Thế đem quân Cao Đài về giúp Tổng Thống Diệm, rồi sau đó bị giết chết một cách mờ ám, khiến người ta nghĩ đó là thủ đoạn của ông Ngô Đình Nhu vì sợ thế lực của Cao Đài.
Đến năm 1956, ông Nhu sai tướng Cao Đài khác là Nguyễn Thành Phương đem quân về vây Hộ Pháp Đường là tư dinh của Đức Hộ Pháp. Đức Hộ Pháp phải lưu vong sang Nam Vang. Từ Nam Vang Đức Ngài đưa ra Chánh Sách Hòa Bình chung sống kêu gọi chánh phủ 2 miền Nam Bắc Việt Nam hãy gạt bỏ mọi ảnh hưởng của ngoại bang, không gây hấn lẫn nhau và lo kiến thiết mỗi miền rồi sau đó tìm cách thống nhất đất nước bằng phương pháp bầu cử theo ý nguyện của toàn dân tộc.
Tổng Thống Diệm, và ông Ngô Đình Nhu 

Nhưng chánh quyền Đệ I Cộng Hòa đã bắt bớ giam cầm hàng trăm chức sắc và tín đồ Cao Đài trong các ban đi kêu gọi thực thi chánh sách nầy…
Đến tháng 5-1959, Đức Hộ Pháp đột ngột qui thiên. Hội Thánh Cao Đài ký với nhà cầm quyền miền Nam một thỏa ước Đạo tu hành thuần túy không hoạt động chánh trị nữa, từ đó tình hình mới yên ổn…
Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu

Đối với nền Đệ II Cộng Hòa:
Vào năm 1965, Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu chủ tịch Ủy ban Lãnh Đạo Quốc gia ban hành sắc luật 3/65 cho phép Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ có tư cách pháp nhân được hoạt động trên toàn thể lảnh thổ VNCH. Nhờ đó trong suốt 10 năm, mặc dầu trong hoàn cảnh chiến tranh, Đạo đã phát triển vượt bực về cơ sở vật chất cũng như các ngành nghiên cứu, giáo dục như: Ban Thế Đạo, Ban Đạo Sử, Viện Đại Học Cao Đài,…Các nhân sĩ Đạo ra ứng cử và đắc cử vào Hội Đồng Tỉnh cũng như Lưỡng viện Quốc Hội VNCH,…
Quả đúng như câu đã ghi vào Pháp Chánh Truyền chú giải là bộ Hiến pháp của Đạo Cao Đài: Đạo Đời tương đắc mới mong tạo thời cải thế.
 
5 - Mối tương quan giữa đạo Cao Đài và nhà cầm quyền CS.
Khi thế chiến thứ hai bùng nổ, Pháp đã bắt Đức Hộ Pháp và 5 vị chức sắc lưu đày sang đảo Madagasca. Pháp chiếm Tòa Thánh và các Thánh Thất đều ngưng hoạt động.
Kịp đến khi quân đội Nhựt Bổn vào Đông Dương, thì Ngài Trần Quang Vinh là một chức sắc Đạo tuyển mộ thanh niên nhà Đạo hợp tác với quân Nhựt để lật đổ chánh quyền thuộc địa Pháp vào ngày 9-3-1945. Nhưng đến ngày 15-8-1945, Nhựt đầu hàng quân Đồng minh vì bị 2 quả bom nguyên tử của Mỹ. Quân đội Pháp theo chân Đồng minh và trở lại tái chiếm Việt Nam. Lúc đó nghĩa binh Cao Đài cùng hợp tác với các lực lượng kháng chiến khác ở miền Nam dưới sự điều động của Việt Minh (VM) là Tổng Ủy Trưởng Trần Văn Giàu. Tuy vậy Ngài Trần Quang Vinh vẫn bị VM bắt ngày 9-10-1945, ngài bị giam giữ cùng nhiều nhà trí thức yêu nước khác như Hồ Văn Ngà, Vũ Tam Anh,…Những người nầy bị VM kết tội là việt gian chỉ vì họ không cùng chánh kiến với người CS đệ Tam.
Thời gian nầy quân đội Pháp trở lại tiến chiếm miền Nam nên VM di chuyển những người tù qua nhiều địa điểm như Bình Điền, Long An, Đồng Tháp Mười, rồi ra tận Cà Mau.
Đến đây hết đường chạy nên VM định đem hết những người nầy lên một hoang đảo và giết hết, nhưng kế hoạch nầy bị rò rỉ nên vào đêm 24 tháng chạp năm Ất Dậu (1945), ông Trần Quang Vinh cùng hơn 230 nhà trí thức yêu nước khác cướp ngục thành công và chạy thoát. Cũng nhờ một toán nghĩa binh Cao Đài do Nguyễn Thành Phương tiếp ứng nên cứu thoát được hết những nhà yêu nước nầy…
Trung Tướng Nguyễn Thành Phương

VM tàn sát tín đồ Cao Đài:
Cũng cần nhắc lại, ngay sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, VM đã tàn sát người tín đồ Cao Đài. Theo tác gỉả Hồ Văn Đồng đăng trên Vietbao.com (4-3-2017):
"Trong suốt 3 tuần lễ kể từ ngày 19-8-1945, chỉ riêng tỉnh Quảng Ngãi đã có 2791 chức sắc chức việc và đạo hữu Cao Đài bị những người CS sát hại bằng đủ cách như chém đầu, chôn sống, thả biển và cả hình thức tùng xẻo như trong thời Trung cổ...
Theo các nhân chứng còn sống, những chức sắc của Giáo hội Cao Đài Hải ngoại thì tổng kết có tới khoảng 30 ngàn tín đồ Cao Đài ở các tỉnh Gò Công, Long An, Trà Vinh, Sa Đéc, Mỹ Tho, Biên Hòa, Đồng Tháp Mười,...bị sát hại bằng cách chôn sống, bắn giết tập thể, vùi thây vào các ngôi mộ tập thể như tại Trảng bàng Tây Ninh, hàng trăm xác người vô tội kể cả đàn bà và trẻ con..."
 
VM tấn công vào nội ô Tòa Thánh:
Đúng ngày 30 Tết Đinh Hợi (1947) khoảng 6 giờ rưởi tối bộ đội VM do Hoàng Thọ chỉ huy bất ngờ tấn công vào nội ô và khu dân cư bên hông Tòa Thánh. Lực Lượng Tự Vệ Nội ô Tòa Thánh đã ngăn chặn và đảy lùi quân VM. Sáng mùng một Tết, Hội Thánh kiểm điểm lại có 8 người chức sắc, chức việc và đạo hữu bị VM giết chết cùng 16 căn nhà bị đốt cháy sạch.
 
Quân Đội Cao Đài được tái lập.
Theo điều ước với Pháp, nếu Cao Đài bị kẻ nghịch tấn công thì Pháp sẽ hoàn lại số vũ khí đã giải giới trước kia. Vì vậy ngay sau khi Tòa Thánh bị tấn công, quân đội Cao Đài được tái lập và làm lễ xuất quân ngày mùng 8 tháng Giêng năm Đinh Hợi (1947). Mục đích chính của quân đội CĐ là để bảo vệ sinh mạng tài sản người tín đồ cùng đồng bào, vì vậy lá cờ của quân đội CĐ là cờ Bảo Sanh, Nhân Nghĩa,...
 
Tình trạng Đạo sau năm 1975.
Nhà nước CSVN đã từng bước làm biến thể đạo Cao Đài không còn đúng với chơn truyền đạo pháp nữa.
Vào năm 1978, họ ngụy tạo ra bản án CĐ để lấy cớ giải thể Hội Thánh, thu hẹp thành Hội Đồng Chưởng Quản.
Đến năm 1997, họ cho tái lập Hội Thánh trá hình như một tổ chức phàm trần để điều hành Tòa Thánh.
Cũng may gần đây (2023) nhờ sự tranh đấu của một số chức sắc và Đồng Đạo Hải ngoại, Tòa án Hoa Kỳ đã tuyên bố ông Nguyễn Thành Tám hiện cai quản Tòa Thánh Tây Ninh là một tổ chức tội phạm xuyên quốc gia...
Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt

Để đúc kết phần nầy chúng tôi xin mượn lời của 2 bậc Tiền Bối đứng đầu Hội Thánh là Đức Hộ Pháp và Đức Quyền Giáo Tông nói về mối tương quan giữa Cao Đài và người CSVN như sau:
Đức Hộ Pháp thuyết Đạo vào đêm Rằm tháng 5 năm Đinh Hợi,1947:
"Kẻ tàn bạo ấy, ngày nay nó tưởng giết Đạo là hết, nước Nam phải chăng đã thiếu Chúa, cho nên tính giết người mà tạo Chúa, đặng ngày sau họ sẽ quì lụy tôn sùng. Nếu không quả có vậy thì luật công bình Thiêng Liêng về đạo đức cũng không hề có"
 
Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt giáng cơ vào ngày 13-10-Canh Dần, (1950) cho bài thi:
Lưỡi liềm chi dễ sánh kim câu,
Gây sự bởi ai tại buổi đầu.
Đông hải mênh mông còn phải cạn,
Tây hồ chật hẹp độ bao sâu.
Tài ba Động Bích bao nhiêu sức,
Quyền pháp Côn Lôn sẳn mấy bầu.
Quyết đoán cuộc cờ ai thắng bại,
Chỉn xem Tiên Phật hướng về đâu.
 
Cái kim câu của Tiên gia hình cong như lưỡi liềm (cờ búa liềm) nhưng có quyền phép vô biên.
Động Bích tức động Bích Du, nơi ở của Thông Thiên Giáo chủ của Triệt giáo.
Côn Lôn nơi ở của Thái Thượng Lão Quân giáo chủ Xiển giáo.
Cuộc thiệt chiến giữa Xiển giáo và Triệt giáo ngày nay tái diễn lại như đời Phong Thần. Cuối cùng bên nào Tiên Phật ủng hộ thì sẽ chiến thắng. Dĩ nhiên Tiên Phật sẽ đứng về phe Xiển giáo…

Phần Kết:
       Nay cuối thời kỳ Hạ ngươn, Đức Chí Tôn đến lập nên Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ hay đạo Cao Đài  Ban đầu Ngài thâu nhận đa số thành phần trí thức ưu thời mẫn thế lập thành Hội Thánh của Ngài. Những vị nầy dễ dàng theo Đạo vì lời hứa của Đức Chí Tôn sẽ giải ách lệ thuộc cho đất nước.
       Hiện tại Đạo còn 1 năm nữa sẽ bước sang một trăm tuổi. Tuy nhiên chỉ có 50 năm đầu là thời gian để kiện toàn luật pháp, các cơ chế tổ chức và truyền Đạo. Đạo ra đời trong hoàn cảnh hết sức khó khăn nhưng vẫn phát triển tốt đẹp và nhanh chóng. 
       Giải pháp cứu thế của Đạo Cao Đài là qui tụ đức tin toàn cả nhân loại về một Đấng Cha Lành duy nhứt là Đấng Chí Tôn Đại Từ Phụ. Phục hồi nền đạo đức nhân loại sao cho phù hợp với xã hội văn minh hiện đại. Và quan trọng nhất là làm sao để độ rỗi tất cả nhân loại toàn cầu không chừa sót một ai. Trong đó dĩ nhiên dân tộc Việt Nam là dân tộc được chọn trước nhứt và ưu tiên nhứt.
* Quang Thông (1-2024)
Tham khảo:
- Thánh Ngôn Sưu Tập.
- Tiểu Sử Đức Hộ Pháp.
- Nội Ứng Nghĩa Binh, và Quân Đội Cao Đài (Chầu Long).

Home Mục Lục: [ 1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ] [ 6 ]  [ 7 ]  [ 8 ]  [ 9 ]  [ 10 ]  [ 11 ]  [ 12 ]  [ 13 ]  [ 14 ]  [ 15 ] [ 16 ]  17 ]  [ 18 ]  .