Luận về chữ BIẾT: Có lẽ chúng ta không còn lạ
gì khi nhắc đến chữ BIẾT. Có thể nói chúng ta đã gặp nó hằng trăm
ngàn lần trong cuộc sống hằng ngày,nơi gia đình,trong sách vở,ở học
đường ,ngoài xã hội,giữa công việc làm đều đâu đâu chúng ta cũng có
gặp,đến nổi mỗi khi không cần suy nghĩ chút gì. Thế nhưng hỏi
lại,có ai thực sự chạm đến chữ BIẾT này một lần nào chưa?
Quả là chúng ta đang vẫy
vùng trong đó như con sóng đang vẫy vùng trong nước đại hải mênh mông.
Nầy chúng ta hãy nhìn một ngọn sóng đang vươn lên,và chúng ta có cảm
nhận được cái gì?Phải chăng chúng ta sống trong ngọn Sóng ấy, từ
nước và vươn lên vẫy vùng trong nước, thế mà có bao giờ Sóng tìm
gặp nước? Lượn Sóng sau tiếp đuổi lượn Sóng trước từ ngày này qua
ngày khác mà không thể tìm đâu là chổ gặp nhau.
Cũng vậy ,chúng ta có
bao giờ chẳng cùng Sóng “Đời bất sanh,bất diệt”.Nhưng cứ mãi theo
đuổi những lượn sóng sanh diệt, cái BIẾT này tiếp đuổi cái BIẾT
kia, thế nên chưa bao giờ chạm mặt một lần BIẾT. Có thể chúng ta
BIẾT và BIẾT thật nhiều.Cho đến trí óc chúng ta đầy ấp không có
chổ để chứa, xong xét kỹ lại chúng ta có thật BIẾT gì đâu? Khi còn
suy nghĩ này nọ tức còn nói :”Tôi Biết thế này… Tôi Biết thế kia…”.
Chợt khi chết hay giấc ngũ mê thì hỏi có còn BIẾT chăng? Cái đó đã
đi về đâu? Hoặc chúng ta ngồi Thiền, tư tưởng tạm thời đứng lặng
im,dừng lại khi ấy lấy gì để BIẾT? Không suy nghĩ thì có tưởng gì?
Do đó chúng ta tưởng chừng như không còn BIẾT nữa, có người ắt sẽ
hoảng hốt ” Thế là tôi mất rồi”.
Vã chăng chúng ta đang
trồi hụp trên những lượn Sóng chập chùng mà quên mất,Nước vẫn còn
đây. Thật sự ai ai cũng đều đủ “TÁNH BIẾT THƯỜNG HẰNG” Không bao giờ
gián đoạn. Mà hiện tiền người Tu cần phải có BIẾT mới có SÁNG tức
là TỈNH. Luôn luôn TỈNH,SÁNG,BIẾT rõ ràng trên cái BIẾT . “Trích
Thuyết nhà Phật ”.
Riêng về Đạo CAO ĐÀI Đức
Chí Tôn dạy chữ BIẾT như sau:
“ CƠ LẬP ĐẠO LÀ NHIỆM
MẦU VÔ GIÁ :BIẾT ĐẠO, BIẾT TA, BIẾT NGƯỜI, BIẾT THẾ, BIẾT THỜI,
BIẾT DINH HƯ,BIẾT TỒN VONG ƯU LIỆT, RỒI MỚI BIẾT HỔ MẶT THẸN LÒNG,
BIẾT SỰ THẾ LÀ TRÒ CHƠI, BIẾT TUỒNG ĐỜI LÀ BỂ KHỔ, BIẾT THÂN NÔ
LỆ, DẪN KIẾP SỐNG THỪA, BIẾT NHỤC VINH MÀ DAY TRỞ TRÊN CON ĐƯỜNG TẤN
THỐI. CÓ ĐÂU ĐƯỜNG ĐỜI CÒN LẮM GIÀNH XÉ, GIẾT HẠI LẪN NHAU, THÌ
MONG CHI ĐẶNG TẦM TIÊN NOI PHẬT.”.
Vậy thì rõ sự BIẾT ấy
đều do nơi sự học hỏi ,lịch lãm tuồng Đời mới mong Đoạt ĐẠO và Đắc
ĐẠO,tức là BIẾT TU LUYỆN TAM BỮU TINH KHÍ THẦN để đoạt đắc NHÃN
HUỆ -QUANG MINH rồi thì tự nhiên có con mắt tinh Đời ấy gọi là ĐẠO
PHÁP và khi đoạt được ĐẠO PHÁP rồi thì Sinh Tử nào có ngại.
LUẬN HÒA VÀ ĐỒNG.
Luận về chữ HÒA và
ĐỒNG:
1/- HÒA: là thuận
tình,thỏa ý hay hòa hiệp cùng nhau và không tranh giành hơn thua cao
thấp, giỏi dỡ, mạnh yếu.
2/- ĐỒNG: là kết bầy
rập bạn, lập đoàn thể này,tổ chức kia, rồi dẫn nhau đi theo một đường
lối riêng, lý tưởng riêng, phương hướng riêng.
Vã chăng ai ai cũng nhận
thức rằng,người ta ở đời không phải một mình sống riêng mà dựng xây
cơ đồ sự nghiệp cho được. Giả như muốn làm một điều gì mà một mình
trơ trọi, ắt không rồi, hoặc có rồi cũng không hay. Lẽ dĩ nhiên cần
có đông người trợ giúp lẫn nhau, công lao đồng chung cộng hưởng thì
việc gì cũng đắc thành, nhơn dịp cùng chung cộng sự đó, người ta
mới có cơ hội biết nhau, thân nhau,và biết phân biệt ai là người Quân
tử, ai là kẽ Tiểu nhơn,nhờ sự phân biệt hai hạng người này là nhờ
hai chữ HÒA Và ĐỒNG.
-- Rút kinh nghiệm trong
đường Đời và Đạo, trong cuộc sống, phương xử thế, giao thiệp ,người
ta thấy rằng: Người Quân Tử Hòa mà bất Đồng, còn kẽ Tiểu Nhơn Đồng
mà bất Hòa.
- Quân Tử ví như nấu một
thức ăn, cần có ngũ vị: chua,cay,mặn,ngọt,đắng. Ngũ vị không đồng
chất,hoặc khác mùi. Nhưng cả thãy đều được điều hòa và bổ khuyết
cho nhau làm ra thức ăn ngon lành “Hợp khẩu vị người ăn, cảm thấy
sãng khoái thích thú” là nhờ tương tế cho nhau, nên Hòa thì hết sức
Hòa và không vì lẽ bất đồng chất hay bất đồng vị mà làm cho tương
khắc, tương phản với nhau.
Cách cộng sự của người
Quân Tử là thế.Không phân biệt hạng người cao kẽ hạ, người giàu kẽ
nghèo, người khôn kẽ dại. Bậc Quân Tử tự hạ mình ngang hàng với kẽ
khác và giữ tánh như nước. Không để mất niềm Hòa khí giữa mình và
Thiên hạ. Làm như vậy là đem lợi ích chung cho Đạo và Đời là tạo
được sự HÒA tức là tạo được cái sự yên bình cho Đạo cho Quốc gia
và Xã hội.
- Tiểu Nhơn ví như làm
một,giống như đồ ăn có ngũ vị, nhưng mà mặn không hòa với cay, chua
không hòa với đắng, hễ mặn thì dắt nhau thiệt mặn. Cay thì hiệp nhau
rất cay. Đồng thì vẫn có Đồng thiệt,nhưng mà không Hòa được. Cách
cộng sự của Tiểu Nhơn là thế. Họ chỉ trọng về tư lợi. Kẽ Tiểu Nhơn
mượn cái lượng làm thế lực chớ không san bằng giá trị tuyệt đối
của sự vật, cho nên trong cách xử sự, hoặc thái hóa, hoặc bất cập,
có thể đi đến bạo phát, nhưng rồi bạo tàn, vì chổ bất Hòa mà ra
vậy.
Người Quân Tử Sự loạn
nên chuyên chữ HÒA.
Người Tiểu Nhơn sự HÒA
rồi Thất lợi.
Hai tư tưởng và hai cách
xữ sự chữ HÒA khác nhau. Nhưng chung qui phần thắng về Quân Tử “Quân
Tử là CHÁNH, Tiểu Nhơn là TÀ. Tức “Tà không bao giờ thắng Chánh”.
Trong cửa ĐẠI ĐẠO TAM KỲ
PHỔ ĐỘ là cửa hằng ngày HỘI THÁNH QUYẾT SÁCH VẬN TRÙ. Để tìm CHƠN
PHÁP trừ mị diệt Tà hầu dìu dẫn Nhơn sanh và qui cả Thiên Lương vào
nơi Đại Đồng thì không thể áp dụng cái thuyết “Đồng Nhi Bất Hòa”
của Tiểu Nhơn hay “Hòa Nhi Bất Đồng”của Quân Tử. TRÁI LẠI, PHẢI KIÊM
CẢ HÒA VÀ ĐỒNG ĐẶNG ĐÔI BÊN PHÒ TRÌ NHAU MỚI ĐI ĐẾN ĐÍCH.
Khác với Đời là như
thế, và như thế mới đạt ĐẠO LÝ LÀM NGƯỜI TRONG CỬA ĐẠI ĐẠO.
Vậy phải thi hành chánh
sách gì? Tức là phải cư xữ moi việc cho CÔNG BẰNG. ẤY LÀ HÒA VÀ
THƯƠNG YÊU DUNG CHẾ CHO NHAU: ẤY LÀ ĐỒNG.
- HÒA thời thật HÒA. Vì
không còn so hơn tính thiệt,ganh hiền ghét ngõ mưu hại lẫn nhau.
- ĐỒNG thời thật là
ĐỒNG, coi Ta như Người không phân giai cấp, không phân biệt sắc tóc mầu
da, yêu thương nhau không hề rời bỏ nhau cho đặng.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
HOẰNG KHAI TRONG THỜI ĐẠI NHƠN SANH TÁC LOẠN CHỈ CÓ BẤY NHIÊU ĐÓ MÀ
THÔI: LÀ CHỮ BIẾT, HÒA Và ĐỒNG./.
Texas, ngày 28-12-2021 (ÂL 25-11-Tân Sữu).
* CTS Nguyễn Thị Mỹ Nga (Sưu tầm)
NỐI BƯỚC. N°I [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13] [14] [15] [16] [17]