Mở đầu
Mỗi tín đồ Cao Đài đều biết cúng tứ thời nghĩa là thực hiện thể pháp thông qua việc tụng (đọc lớn tiếng) các bài kinh theo qui định của Hội Thánh, tốt nhất là đọc trên nền nhạc cổ truyền miền Nam của dân tộc. Theo ước lượng của tôi, 90% tín đồ là thuộc lòng các bài kinh, nhưng tỉ lệ phần trăm tín đồ thực sự hiểu rõ lời các bài kinh thì thấp hơn thế nhiều.
Tóm lại, phần đông chúng ta đọc theo thói quen và theo niềm tin vào Hội Thánh. Mặc dù nhiều vị tiền bối khuyến khích chúng ta “đọc kinh phải cầu lý”, nhưng việc này khá là khó khăn vì những lý do sau đây.Thứ nhất, đa phần
các bài kinh viết pha trộn từ ngữ Hán Việt và Việt Nam, đặc biệt các bài kinh
Ngọc Hoàng Thượng Đế, Thích Giáo, Tiên Giáo và Nho Giáo là hoàn toàn bằng từ ngữ
Hán Việt. Nhưng có lẽ nên nói thêm một chút về sự khác biệt giữa tiếng Việt (có
người còn gọi là thuần Việt) và Hán Việt. Từ ngữ Việt là của người Việt Nam, hiện
giờ ghi bằng mẫu tự Latin, tức là loại chữ viết mà chúng ta đang sử dụng. Thí dụ
như ‘nhà của tôi’. Một điều dễ thấy là người Việt chúng ta hiểu ngay lập tức đó
là gì. Còn Hán Việt là dùng chữ viết của người Trung Hoa nhưng lại đọc thành âm
Việt Nam. Thí dụ, người Việt Nam xưa viết thế này 夫人 và đọc là ‘phu nhân’, trong khi người Hoa
cũng viết như thế nhưng phát âm là ‘fu rịn’. Những từ này ngày nay được ghi lại
bằng mẫu tự Latin và được dùng rất nhiều trong tiếng Việt. Một số có thể hiểu
được ngay, một số thì cần phải dịch lại. Thí dụ, ‘Ngọc Hoàng Thượng Đế’ thì
chúng ta biết ngay là Vị Vua tối cao trên trời, nhưng ‘diệu diệu’ hay ‘nguy
nguy’ thì cần phải dịch ra tiếng Việt là ‘ở rất xa’ và ‘rất to lớn’ mới hiểu được.
Thứ hai, có nhiều
từ ngữ Hán Việt dịch ra tiếng Việt rồi vẫn không hiểu được vì có hàm ý dính
dáng đến triết lý phương Đông hoặc một truyện cổ, thường là bên Trung Hoa. Ví dụ,
‘thị không thị sắc’ nếu dịch tiếng Việt ‘là không là có’ thì cũng chưa hiểu được,
mà phải giải thích thêm đây là viết tắt của câu “Sắc tức thị không, không tức
thị sắc…” trong Bát Nhã Tâm Kinh của Phật Giáo. Và có lẽ cần phải nói thêm về
triết lý Phật Giáo Đại Thừa nữa. Hay ví dụ như ‘Tử khí đông lai quảng truyền Đạo
Đức’ dịch ra là ‘Làn hơi màu tím từ hướng đông bay tới dạy đạo’ thì cũng chưa
hiểu được mà phải kể thêm câu chuyện về ngài Doãn Hỉ. Ngài Doãn Hỉ làm quan giữ
cửa ải ở Trung Hoa, một hôm nhìn thấy đám mây màu tím từ hướng đông bay tới. Do
được báo mộng từ trước ngài đoán là sắp có bậc thánh nhân xuất hiện, nên ngồi
chờ trước cửa. Đến khi thấy Đức Lão Tử tướng diện phi phàm, cưỡi trâu xanh từ
hướng đông tới, ngài biết đây là thánh nhân, nên ra quỳ bên đường tha thiết xin
học đạo. Đức Lão Tử ở lại nhà ngài, viết quyển Đạo Đức Kinh giao lại cho ngài rồi
tiếp tục đi. Quyển sách này sau đó được truyền đi và trở thành kinh điển căn bản
của Đạo Lão.
Do vậy, muốn hiểu
những bài kinh Cao Đài, nhất là những bài nêu trên cần phải có ba yếu tố: biết
chữ Hán Việt, biết giáo lý Đạo Phật, Đạo Lão, Đạo Nho và hiểu một số điển cố
Trung Hoa cổ. Có người nói rằng học hết những điều đó phải vào Đại Học Văn
Khoa và cần rất nhiều thời gian trong khi hiện tại nhiều tín đồ phải kiếm
sống hàng ngày, không đủ điều kiện làm như vậy. Dù như thế nhưng họ vẫn muốn học
đạo để kiếp này không học xong thì cũng có chút ít trong bụng, chờ kiếp sau học
tiếp.
May mắn thay, có
nhiều bậc trí thức biết rõ điều này nên đã ra công dịch, giải thích những bài
kinh Cao Đài. Công quả quí giá đó đem lại lợi ích lớn lao cho người học đạo. Có
thể kể ra một vài vị theo thứ tự thời gian như Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng - Đức
Nguyên, Hiền Tài Nguyễn Văn Mới - Từ Huệ, Hiền Tài Quách Văn Hoà - Thiên Vân và
một số vị nữa mà tôi chỉ nghe nói chứ chưa được hân hạnh đọc tác phẩm. Nay nhờ
có mạng internet mà sách của những vị nói trên được lưu giữ cho thế hệ sau
nghiên cứu, phát triển thêm. Sách của quý vị Hiền Tài nêu trên rất khả tín và đều
có thể tìm đọc ở trang web sau đây:
Đọc
qua những tác phẩm này, tôi có nhận xét sơ bộ như sau. Trước hết, quý tác giả
đã dày công tra cứu tự điển và nêu được ý nghĩa cơ bản ban đầu giúp cho người mới
học đạo những bước tiên khởi của quá trình tu tập. Từ cơ bản này, có thể dễ
dàng tiến lên những bậc tu học cao hơn. Tất cả những tín đồ Cao Đài hiện nay và
cả trong tương lai sẽ vô cùng biết ơn chư vị Hiền Tài đó.
Tuy nhiên, nếu đọc
kỹ thì còn một vấn đề mà hầu như mọi người chưa quan tâm đúng mức. Đó là bài
kinh gốc chữ Hán viết theo lối văn biền ngẫu nhưng khi chuyển thành Hán Việt
thì cấu trúc này đã không còn nữa. Hệ quả là khi chuyển ngữ thành tiếng Việt có
một vài chỗ không chuyển được hết ý chính ban đầu.
Vậy để tận tường căn nguyên, trước hết xin nói về văn biền ngẫu. Biền là hai con ngựa chạy sánh đôi. Ngẫu là một đôi. Đây là thể văn cổ của người Trung Hoa thường dùng những cặp câu đối với nhau. Điều quan trọng là “đối” không chỉ có nghĩa là đối nghịch hay trái nghĩa mà hai từ, hai cụm từ hoặc hai câu “đối nhau” còn có thể là đồng nghĩa hoặc bổ sung cho nhau v.v… Cái chính là ngoài ý nghĩa của từng câu ra có khi lại phát sinh nghĩa tổng hợp thứ ba và đó mới là ý chính của tác giả. Thể loại văn biền ngẫu có nguồn gốc từ triết lý Âm Dương của Trung Hoa cổ đại và hiện vẫn còn ảnh hưởng rất lớn đến văn hoá Trung Hoa và Việt Nam.
Truy nguyên.
Vậy bây giờ xin mời quý đồng đạo cùng phân tích một bài kinh mà mọi tín đồ đều đọc trong một thời cúng để xem khi bỏ qua cấu trúc văn biền ngẫu thì điều gì xảy ra. Xin đề nghị bài kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế. Theo quý vị Hiền Tài soạn giả nêu trên, Kinh Ngọc Hoàng Thượng Ðế còn gọi là Ngọc Hoàng Thiên Tôn Bửu Cáo hay Ngọc Hoàng Bửu Cáo, do Ðại Tiên Lữ Đồng Tân trong Bát Tiên (tám vị Tiên trong truyền thuyết Trung Hoa), giáng cơ ban cho ở bên Trung Hoa, vào năm thứ 17 đời vua Ðức Tông nhà Thanh, niên hiệu Quang Tự, ngày 1-9-Tân Mão (3-10-1891). Sau đó kinh truyền đến Việt Nam. Nhưng truyền cho ai và vì sao được dùng trong Đạo Cao Đài thì không nghe đề cập, chỉ thấy nói có bản gốc chữ Hán trong quyển “Tứ Thời Nhựt Tụng Kinh” in năm 1928 của hai vị Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt và trong quyển “Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Kinh” của Bà Nữ Ðầu Sư Lâm Hương Thanh. Bản gốc này được in ra như sau.
玉 皇 上 帝
大 羅 天 帝,
太 極 聖 皇.
化 育 群 生,
統 御 萬 物.
渺 渺 黃 金 闕,
巍 巍 白 玉 京.
若 實 若 虛, 不 言 而 默 宣 大 化.
是 空 是 色, 無 為 而 役 使 群 靈.
時 乘 六 龍, 遊 行 不 息,
氣 分 四 象, 斡 旋 無 邊.
乾 健 高 明, 萬 類 善 惡 悉 見,
玄 範 廣 大, 一 算 禍 福 立 分.
上 掌 三 十 六 天, 三 天 世 界,
下 握 七 十 二 地, 四 大 部 洲.
先 天 後 天, 並 育 大 慈 父,
今 仰 古 仰, 普 濟 總 法 宗.
乃 日 月 星 辰 之 君,
為 聖 神 仙 佛 之 主.
湛 寂 真 道,
恢 漠 尊 嚴.
變 化 無 窮, 屢 傳 寶 經 以 覺 世.
靈 威 莫 測, 常 施 神 教 以 利 生.
洪 威 洪 慈, 無 極 無 上,
大 聖 大 願, 大 造 大 悲.
玄 穹 高 上 帝,
玉 皇 錫 福 宥 罪
大 天 尊.
Sau đó Hội Thánh Cao Đài Toà Thánh Tây Ninh cho chuyển ngữ sang tiếng Hán Việt và in trong quyển Kinh Thiên Đạo Thế Đạo. Bản in ban đầu có nhiều dấu gạch nối giữa hai từ vì tiếng Việt thời đó phải viết như vậy. Đến nay (2021) thì thói quen này dần dần bị mất đi bởi viết như thế rất mất thời gian mà ý nghĩa chẳng thay đổi gì. Cho nên kinh văn ngày nay không có các dấu gạch nối nữa. Bản in bây giờ trông như thế này:
NGỌC HOÀNG
THƯỢNG ĐẾ
Đại La Thiên Đế,
Thái Cực Thánh Hoàng.
Hóa dục quần sanh,
Thống ngự vạn vật.
Diệu diệu “Huỳnh Kim Khuyết”,
Nguy nguy “Bạch Ngọc Kinh”.
Nhược thiệt, nhược hư,
Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa.
Thị không, thị sắc,
Vô vi nhi dịch sử quần linh.
Thời thừa Lục long,
Du hành bất tức,
Khí phân Tứ tượng,
Hoát truyền vô biên.
Càn kiện cao minh,
Vạn loại thiện ác tất kiến,
Huyền phạm quảng đại,
Nhứt toán họa phước lập phân.
Thượng chưởng Tam thập lục Thiên,
Tam Thiên Thế giái.
Hạ ốc Thất thập nhị Địa,
Tứ Đại Bộ Châu
Tiên Thiên Hậu Thiên ,
Tịnh dục Đại Từ Phụ.
Kim ngưỡng, cổ ngưỡng,
Phổ tế Tổng Pháp Tông.
Nãi Nhựt, Nguyệt, Tinh, Thần chi Quân,
Vi Thánh, Thần, Tiên, Phật chi Chủ.
Trạm tịch chơn Đạo,
Khôi mịch tôn nghiêm.
Biến hóa vô cùng,
Lũ truyền Bửu Kinh dĩ giác thế,
Linh oai mạc trắc,
Thường thi Thần giáo dĩ lợi sanh.
Hồng oai, hồng từ,
Vô cực, vô thượng.
Đại Thánh, Đại Nguyện, Đại Tạo, Đại Bi.
Huyền
Khung Cao Thượng Đế,
Ngọc
Hoàng tích phước hựu tội,
Đại Thiên Tôn.
Từ lúc mở đạo đến nay đã 96 năm trôi qua, toàn thể tín
đồ Cao Đài chỉ biết tụng đọc bản kinh tiếng Hán Việt này. Khi mới nhìn qua hai
bản in, rõ ràng có thể có vài nhận xét.
Thứ nhất, ở bản gọi là “gốc chữ Hán”, câu chữ viết theo hàng ngang, từ trái qua phải, có dấu chấm và phẩy theo lối viết chữ Latin. Theo các vị Hiền Tài dịch giả thì văn bản này đã có từ năm 1891. Tuy nhiên, theo sách vở, thời đó người Hán viết chữ hàng dọc, từ phải qua trái và không có dấu chấm hay phẩy. Lối viết hàng ngang chỉ có sau Cách Mạng Trung Hoa năm Tân Hợi 1911, lúc văn hoá Tây Phương tràn vào Trung Hoa. Vậy thì bản này không thể gọi là chính gốc được mà thực tế đã bị chuyển đổi sang kiểu phương Tây. Có điều, tuy đã mất cấu trúc hàng dọc, nhưng vẫn còn giữ theo thể văn biền ngẫu, tức là từng đôi hai câu đối với nhau, trừ ba câu cuối.
Một văn bản Hán Tự cổ.
Thứ hai, bản tiếng
Việt đã ngắt câu khác với bản chữ Hán, ngoại trừ 5 đôi câu còn giữ đúng theo kiểu
văn biền ngẫu, số câu còn lại đã bị ngắt xuống hàng theo một cách khác hẳn và
không còn giữ tính chất “đối” nữa. Không rõ có phải trình bày như thế cho dễ sắp
chữ in ấn hay dễ đọc theo nhịp Nam Xuân & Nam Ai khi tụng kinh hay không.
Dù sao cách trình bày này đã bỏ qua đặc trưng đối của văn biền ngẫu vốn được
trình bày trong bản chữ Hán.
Những câu còn giữ cách trình bày kiểu biền ngẫu thì có thể nhìn thấy những cặp từ ngữ đối nhau rất chỉnh. Ví dụ như:
Đại La Thiên Đế
Thái Cực Thánh Hoàng.
Đại La (lưới lớn)
là danh từ nói về chiều rộng, đối với Thái Cực (cao tột đỉnh) là danh từ nói về
chiều cao. Thiên Đế (Vua Trời), danh từ đối với Thánh Hoàng (Vua cõi thiêng
liêng), cũng là danh từ.
Hoá dục quần sanh
Thống ngự vạn vật
Hoá dục (sinh ra và nuôi dưỡng) là động từ, đối với thống ngự (cai trị tất cả) cũng là động từ. Quần sanh (tất cả các sinh vật) là danh từ làm tân ngữ, đối với vạn vật (tất cả các vật thể) cũng là danh từ làm tân ngữ.
Trái lại, những
cặp câu khác rõ ràng đã mất đi tính chất đối này. Ví dụ như:
Nhược thiệt nhược hư,
Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hoá.
Nhìn hai câu này, nội số lượng từ cũng đã chẳng bằng nhau, nói chi đến đối nhau.
Điều chỉnh.
Vì vậy, để cho
đúng tinh thần văn biền ngẫu, đề nghị văn bản nói trên chỉnh lại như sau:
Đại La Thiên Đế.
Thái Cực Thánh Hoàng
Hoá dục quần sanh.
Thống ngự vạn vật
Diệu diệu Huỳnh Kim Khuyết.
Nguy nguy Bạch Ngọc Kinh
Nhược thiệt nhược hư bất ngôn nhi mặc
tuyên đại hoá.
Thị không thị sắc vô vi nhi dịch sử quần linh
Thời thừa lục long du hành bất tức.
Khí phân tứ tượng hoát truyền vô biên
Càn kiện cao minh vạn loại thiện ác tất kiến.
Huyền phạm quảng đại nhất toán họa phước lập phân
Thượng chưởng tam thập lục thiên tam thiên
thế giới.
Hạ ốc thất thập nhị địa tứ đại bộ châu
Tiên thiên hậu thiên tịnh dục Đại Từ Phụ.
Kim ngưỡng cổ ngưỡng phổ tế Tổng Pháp Tông
Nãi nhựt nguyệt tinh thần chi quân.
Vi Thánh Thần Tiên Phật chi chủ
Trạm tịch chơn đạo.
Khôi mịch tôn nghiêm
Biến hóa vô cùng lũ truyền bửu kinh dĩ
giác thế.
Linh oai mạc trắc thường thi thần giáo dĩ lợi sanh
Hồng oai hồng từ vô cực vô thượng.
Đại thánh đại nguyện đại tạo đại bi
Huyền khung cao Thượng Đế Ngọc Hoàng.
Tích phước hựu tội Đại Thiên Tôn.
Trong bản chỉnh lại này, chỉ cần biết đôi chút về từ Hán Việt cũng thấy đặc trưng “đối” của văn biền ngẫu. Thêm một điều nữa, dấu chấm câu cũng phải đổi lại. Không có dấu phẩy ở giữa câu và cuối mỗi câu sẽ có dấu chấm. Người Trung Hoa xưa không cần dấu chấm, phẩy vì họ dựa theo tính cách đối nhau để biết khi nào là hết một câu.
Một số điểm mới.
Hoặc có thật hoặc không có thật Ngài không nói gì nhưng ban lệnh cho tất cả mọi vật.
Là không là có Ngài không làm gì nhưng sai khiến tất cả các linh hồn.
Thời gian cưỡi sáu rồng di chuyển không ngừng nghỉ.
Khí chia ra thành bốn phần truyền đi không có giới hạn.
Ngài mạnh mẽ, sáng suốt nhìn thấy mọi hành động thiện ác.
Ngài sâu sắc, rộng rãi dùng một phép tính phân rõ hoạ phước.
Trên cao Ngài nắm quyền ba mươi sáu tầng trời và ba ngàn thế giới.
Dưới thấp Ngài coi sóc bảy mươi hai quả đất và bốn vùng đất lớn.
Ngài là người cha hiền nuôi dưỡng muôn loài đồng đều cả trước khi lẫn sau khi lập thành trời đất.
Ngài là người đứng đầu mọi tôn giáo cứu giúp tất cả mọi người và được thờ phượng từ xưa đến nay.
Ngài là vua của mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao và các thần linh.
Ngài là chủ của Thánh Thần Tiên Phật.
Đạo hết sức sâu xa.
Đạo to lớn đáng kính.
Ngài biến hóa vô cùng, nhiều lần truyền lại kinh sách để cứu đời.
Ngài linh thiêng vô song, thường mở đạo dạy dỗ loài người.
Ngài có uy quyền tột bực nhưng cũng thương chúng sanh vô cùng.
Ngài là Đấng Tạo Hoá thánh thiện nguyện cứu muôn loài.
Ngài là Ngọc Hoàng Thượng Đế huyền diệu, lớn lao, tối cao. Ngài là Đại Thiên Tôn luôn ban phước và tha tội cho muôn loài.
Niệm: “Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát”.
* * *
Phật Giáo
Chinese
佛 教
燃燈古佛志心皈命禮
混沌尊師
乾坤主宰
歸世界於一氣之中
握塵寰於雙手之內
慧燈不滅 照三十六天之光明
道法長流 開九十二曹之迷昧
道高無極
教闡虛靈
吐氣成虹 而一柱撐天
化劍成尺 而三分托地
功參太極 破一竅之玄關
性合無為 統三才之秘旨
多施慧澤
無量度人
大悲大願 大聖大慈
先天正道 燃燈古佛 無為闡教天尊
念 南無燃燈古佛大菩薩摩訶薩
* * *
Sino Vietnamese.
PHẬT GIÁO
Nhiên Đăng Cổ Phật chí tâm qui mạng lễ
Hỗn độn Tôn Sư.
Càn khôn Chủ Tể.
Qui thế giái ư
nhứt khí chi trung.
Ốc trần huờn ư song thủ chi nội.
Huệ đăng bất diệt
chiếu tam thập lục thiên chi quang minh.
Đạo pháp trường lưu khai cửu thập nhị tào chi mê muội.
Đạo cao vô cực.
Giáo xiển hư linh.
Thổ khí thành hồng
nhi nhứt trụ xang thiên.
Hóa kiếm thành xích nhi tam phân thác địa.
Công tham thái cực
phá nhứt khiếu chi huyền quang.
Tánh hiệp vô vi thống tam tài chi bí chỉ.
Đa thi huệ trạch.
Vô lượng độ nhơn.
Đại Bi Đại Nguyện Đại Thánh Đại Từ
Tiên Thiên Chánh Đạo Nhiên Đăng Cổ Phật Vô Vi Xiển Giáo Thiên Tôn.
Niệm: “Nam Mô Nhiên Đăng Cổ Phật Đại Bồ Tát Ma Ha Tát”.
* * *
Vietnamese.
PHẬT GIÁO
Kính lạy Đức Nhiên Đăng Cổ Phật
Ngài là bậc Thầy
từ trước khi có trời đất.
Ngài là Chúa Tể toàn vũ trụ.
Gom hết thế giới
vào trong Khí.
Nắm hết cõi trần
trong hai bàn tay.
Trí huệ sáng suốt
mãi mãi chiếu sáng 36 tầng trời.
Lời dạy đạo không cùng tận làm thức tỉnh 92 ức nguyên nhân.
Đạo cao tột bực.
Lời dạy đạo nhiệm màu.
Phun hơi thành cầu
vồng một trụ chống trời.
Biến cây gươm thành cây thước ba phân đỡ đất.
Theo lý thái cực
mở cánh cửa huyền diệu duy nhất trong cơ thể con người.
Theo lý vô vi kết hợp ba điều quí báu của cơ thể con người.
Nhiều lần ban
ơn.
Cứu người vô số.
Ngài rất thương và nguyện cứu người. Ngài là bậc Thánh hiền từ.
Ngài là Đức Nhiên Đăng, là vị Phật có trước khi thành lập trời đất.
Ngài là đấng dạy đạo đáng kính trên cõi thiêng liêng.
Niệm: “Nam Mô Nhiên Đăng Cổ Phật Đại Bồ Tát Ma Ha Tát”.
* * *English.
Buddhism
Đức Nhiên Đăng Cổ Phật (Dipankara Buddha)
He is the Teacher before the Creation.
He is the Supreme Leader of the universe.
The whole world is gathered by the Khí (life force).
The whole world is collected by the two hands.
The eternal Prajna illuminates 36 heavens.
The everlasting teachings waken 9,200,000 original souls.
Đạo is supremely high.
Religious teachings are absolutely mysterious.
Puffing out a rainbow that is the pillar to support heaven.
Changing a sword into a thrree-phân ruler to buttress earth.
Following the thái cực (absolute) to open the only magical portal of your body.
Imitating the vô vi (wu wei) to unite the three treasures of your body.
Blessing numerous times.
Saving a great number of people.
He loves people, vowing to save them all. He is the greatly empathetic Saint.
He is Nhiên Đăng Cổ Phật, the Buddha before the Creation.
He is the Divine Being, who preaches Buddhism.
Chant: “Nam Mô Nhiên Đăng Cổ Phật Đại Bồ Tát Ma Ha Tát”.
* * *
Tiên Giáo
Chinese
仙 教
太 上 志 心 歸 命 禮
先 天 氣 化
太 上 道 君
聖 不 可 知
功 不 可 議
無 為 居 太 極 之 前
有 始 超 群 真 之 上
道 高 一 氣 妙 化 三 清
德 煥 虛 靈 法 超 群 聖
二 月 十 五 分 性 降 生
一 身 億 萬 妙 玄 神 變
紫 氣 東 來 廣 傳 道 德
流 沙 西 度 法 化 相 宗
產 漆 園 方 朔 之 輩 丹 析 微 茫
開 天 地 人 物 之 先 道 經 浩 劫
乾 坤 斡 運
日 月 之 光
道 法 包 羅
九 皇 鼻 祖
大 千 世 界 揚 頌 慈 恩
永 劫 群 生 仰 其 惠 德
大 神 大 聖 至 極 至 尊
先 天 正 一 太 上 道 君 掌 教 天 尊
念 南 無 太 上 道 祖 三 清 應 化 天 尊
* * *
SINO-VIETNAMESE
TIÊN GIÁO
Thái Thượng chí tâm qui mạng lễ.
Tiên Thiên khí hóa.
Thái Thượng Đạo Quân.
Thánh bất khả tri.
Công bất khả nghị.
Vô vi cư Thái Cực chi tiền.
Hữu thỉ siêu quần chơn chi thượng.
Đạo cao nhứt khí diệu hóa Tam Thanh.
Đức hoán hư linh pháp siêu quần Thánh.
Nhị ngoạt thập ngũ phân tánh giáng sanh.
Nhứt thân ức vạn diệu huyền thần biến.
Tử khí đông lai quảng truyền Đạo Đức.
Lưu sa tây độ pháp hóa tướng tông.
Sản Tất Viên Phương Sóc chi bối đơn tích duy mang.
Khai thiên địa nhơn vật chi tiên đạo kinh hạo kiếp.
Càn khôn hoát vận.
Nhựt nguyệt chi quang.
Đạo pháp bao la.
Cửu hoàng tỉ tổ.
Đại thiên thế giái dương tụng từ ân.
Vĩnh kiếp quần sanh ngưỡng kỳ huệ đức.
Đại Thần Đại Thánh Chí Cực Chí Tôn
Tiên Thiên Chánh Nhứt Thái Thượng Đạo Quân Chưởng Giáo Thiên Tôn.
Niệm: “Nam Mô Thái Thượng Đạo Tổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn”
* * *
Vietnamese.
Kính lạy Đức Thái Thượng.
Trước khi có trời đất, Khí biến hoá thành một Đấng.
Đó là Đức Thái Thượng Đạo Quân.
Ngài thánh thiện vượt ra ngoài sự hiểu biết của con người.
Công đức của Ngài con người cũng không thể bàn luận cho hết.
Trước khi có trời đất Ngài ở trước ngôi Thái Cực.
Sau khi có trời đất Ngài cao hơn các bậc đắc đạo.
Đạo làm cho một Khí biến thành Tam Thanh.
Đức soi sáng cõi trời bằng lời dạy đạo vượt qua các vị Thánh.
Ngày rằm tháng hai Ngài xuống cõi trần.
Chỉ là một đấng thôi nhưng Ngài biến ra thành rất nhiều người.
Đám mây màu tím từ hướng đông bay tới báo trước việc Ngài truyền quyển Đạo Đức Kinh.
Sau đó Ngài đi qua vùng sa mạc ở hướng tây để mở đạo dạy người.
Về sau có Ông Trang Chu và Ông Đông Phương Sóc giải thích thêm cách luyện đạo rất rõ ràng.
Từ khi lập thành trời đất cho đến nay Ngài đã truyền đạo qua rất nhiều kiếp.
Trời đất xoay chuyển.
Mặt trời mặt trăng thay nhau chiếu sáng.
Lời dạy đạo rất bao la.
Kể từ lúc mới có loài người cho đến nay.
Toàn thế giới ngợi ca công ơn của Ngài.
Tất cả loài người mãi mãi kính trọng ơn đức của Ngài.
Ngài là Đấng Thánh Thiện cao cả đáng tôn thờ.
Ngài là Đức Thái Thượng Đạo Quân Cầm Quyền Tiên Giáo Trên Cõi Thiêng Liêng.
Niệm: “Nam Mô Thái Thượng Đạo Tổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn”
* * *
English.
Thái Thượng Đạo Quân (Taishan Laojun).
Before the Creation
Khí (life force) transformed into a Divine Being.
That is Đức Thái
Thượng Đạo Quân (Taishang Laojun).
He is saintly beyond any common knowledge.
His merits are beyond any reasoning.
Before the Creation He is before Tai chi (absolute).
After the
Creation He is superior to all enlightened beings.
Đạo makes Khí
change into Tam Thanh (the Three Pure Ones).
Đức lightens the
spiritual realm, giving religious doctrine that supersedes divine beings.
On the 15th of the
Second month He reincarnated on earth.
He magically
transformed into numerous people.
The purple cloud from the East heralded the emergence of Đạo Đức
Kinh.
Then He traveled
to the desert in the West to preach.
Later the students
like Trang Chu and Đông Phương Sóc elucidated how to practice religion.
Since the
Creation He has had innumerable incarnations as religious preachers.
Heaven and earth changes eternally.
The sun and the moon take turn illuminating.
Religious doctrines have been greatly significant.
Since the emergence
of humankind.
Everyone glorifies
His contributions.
Humanity worships Him forever.
He is the greatly
revered Saint.
He is Thái Thượng Đạo Quân, the Supreme Leader of
Taoism.
Chant: “Nam Mô Thái Thượng Đạo Tổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn”
* * *
Nho Giáo .
Chinese.
儒 教
孔 聖 志 心 皈 命 禮
桂 香
內
殿
文 始 上 宮
九 十
五
回
種
善
果
於
詩
書
之
圃
百 千 萬 化 培 桂 樹 於 陰 騭 之 田
字 雷
貯
炳
靈
於
鳳
嶺
至 如 意 慈 祥 於 鰲 柱
開 人
心
必
本
於
篤
身
之
孝
壽 國 脈 必 先 於 致 主 之 忠
應 夢
保
生
垂 慈 憫 苦
大 仁
大
孝
大 聖 大 慈
神 文
聖
武
孝 德 忠 仁
王 賓
策
輔
儒
宗
開
化
文 宣 司 祿 弘 仁 帝 君
澄 真
正
光
寶 光 慈 濟 天 尊
念 南 無 孔 聖 先 師 興 儒 盛 世 天 尊
SINO-VIETNAMESE.
NHO GIÁO
Khổng Thánh chí tâm qui mạng lễ.
Quế Hương nội điện.
Văn Thỉ thượng cung.
Cửu thập ngũ hồi chưởng thiện quả ư thi thơ chi phố.
Bá thiên vạn hóa bồi quế thọ ư âm chất chi điền.
Tự lôi trữ bính linh ư phụng lãnh.
Chí như ý từ tường ư ngao trụ.
Khai nhơn tâm tất bổn ư đốc thân chi hiếu.
Thọ quốc mạch tất tiên ư trí chúa chi trung.
Ứng mộng bảo sanh
Thùy từ mẫn khổ
Đại Nhơn, Đại Hiếu, Đại Thánh, Đại Từ
Thần văn, Thánh võ, Hiếu Đức, Trung Nhơn
Vương Tân sách phụ Nho Tông khai hóa
Văn Tuyên Tư Lộc hoằng nhơn Đế Quân
Trừng chơn chánh quang Bửu Quang từ tế Thiên Tôn.
Niệm: “Nam Mô Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn”.
Chant: “
* Từ Chơn
NỐI BƯỚC. N°I [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13] [14] [15] [16] [17]