Pháp môn cúng tứ
thời là pháp môn cúng bốn thời Tý Ngọ Mẹo Dậu.
Thời tý từ 11 giờ tới 01 giờ khuya. Cúng vào 12 giờ
khuya.
Thời mẹo từ 5 giờ tới 7 giờ sáng. Cúng vào lúc 6 giờ
sáng.
Thời ngọ từ 11 giờ trưa tới 01 giờ trưa. Cúng vào lúc 12
giờ trưa.
Thời dậu từ 5 giờ chiều tới 7 giờ chiều. Cúng vào lúc 6
giờ chiều.
Lý do: Hai thời mẹo và dậu là lúc hai khí âm dương giao
hòa còn thới tý là lúc khí âm cực thịnh khí dương mới sanh còn yếu ớt dễ hấp thụ.Thời
ngọ là khí dương cực thịnh khí âm mới sanh hấp thụ khí âm rất dễ. Cúng bốn thời
này để điều hòa khí âm dương trong thân xác của người tu tăng cường sức khỏe chống
bệnh tật và có ảnh hưởng tốt làm chơn thần người tu sáng suốt ngày càng mẫn huệ.
. .
Đây là pháp môn đặc biệt của Đạo Cao Đài áp dụng cho suốt
cuộc đời.
Lời phê của Đức Hộ Pháp đã trả lời cho một vị chức sắc Hội
Thánh Phước Thiện là Chí thiện Lê văn Trường xin nghỉ cúng vào thời Tý vì lý do
già yếu bệnh tật như sau:
“ Hễ càng già lại càng cúng nhiều đặng dâng mạng-căn số-kiếp
của mình cho Đức Chí-Tôn định, ấy là bí-mật giải thoát của Chí-Tôn để nơi Cơ Tận-Độ.
Dầu đương giờ mình cúng mà chết trước mặt Người lại càng hay. Phải tuyên-truyền
cho ai-ai cũng đều thấu-đáo nghĩa-lý Bí-Pháp này. Khi đau ốm nằm dưỡng bịnh hễ
nghe thời cúng là ngồi dậy dâng Tam-Bửu cho Chí-Tôn.”
HỘ-PHÁP (Ấn-Ký)
Muốn cúng tứ thời đầy đủ mỗi tín đồ sau khi nhập môn phải
thiết lập thiên bàn tại tư gia có sự chứng kiến của Bàn trị sự và đồng đạo tại
địa phương. Đây là một điều quan trọng mà người tín đồ Cao Đài ở hải ngoại tỏ
ra lơ là không thực hiện bởi vì không biết lợi ích của pháp môn này là giải
thoát luân hồi sanh tử.
Pháp Thiền của Đạo Cao Đài không giống như Đạo Phật ngồi
kiết già hai chân gát lên nhau hoặc bán già gát một chân.Ngồi im bất động.Trái
lại Pháp môn của Đạo Cao Đài là quỳ thẳng lưng thỉnh thoảng gật đầu hoặc lạy
nên gọi là Thiền động không bị mỏi cổ, mỏi lưng, mỏi gối tê chân .Thân cử động
nhưng tâm không động.Trước năm 1975 mọi nhà ở xung quanh vùng Toà Thánh Tây
Ninh đều cúng tứ thời ít nhất một thời trong ngày.Ngoài ra còn có cúng liên gia
12 gia đình tập họp mỗi chiều cúng ở một nhà và thay phiên nhau đủ 12 nhà.Hiện
nay chỉ còn một số ít nhà cúng tứ thời thường chỉ đốt nhang cúng nước trà hoặc
rượu không có đọc kinh người ta hay châm biếm gọi là đạo cặm tức là chỉ cặm
nhang không có tụng kinh.Lý do không hiểu sự ích lợi của việc cúng kiến do đó
thiếu đức tin không làm theo.
Mục đích của việc cúng tứ thời.
Dâng Tam Bửu.
Trong kinh cúng Tứ thời có phần Dâng tam bửu là phần quan
trọng nhất. Dâng tam bửu chính là bí pháp giải thoát.
Dâng Tam Bửu là chúng ta dâng cả thể xác, trí não và linh
hồn cho Đức Chí Tôn toàn quyền sử dụng để độ rỗi con cái Người. Đây là bí pháp
giải thoát mà Đức Hộ Pháp đã giảng rất rõ ràng tin hay không do mỗi người tự
quyết định.
Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo giải thích như sau :
“ Ấy vậy, mỗi ngày, từ mơi tới trưa, đến chiều, từ chiều
đến khuya, từ khuya đến sáng, mình vô Đền Thánh kêu Đức Chí Tôn, kêu Tam Giáo
và các Đấng Thiêng liêng mà phân chứng trước : Thân tôi không còn là của
tôi nữa, tôi đã hiến cho Đức Chí Tôn, làm tôi tớ cho vạn linh, thay thế cho Đức
Chí Tôn.
Giờ phút đó, chúng ta không biết tội nào chúng ta đã làm,
dầu có tội mà chúng ta không làm điều gì thêm nữa thì quả kiếp ấy tiêu diệt, cơ
quan giải thoát chúng ta đoạt, không thế gì định tội được.
Đức Chí Tôn biểu chúng ta không phải là chúng ta, mà
chúng ta không phải là chúng ta thì quả kiếp ấy không phải là của chúng ta, tức
nhiên ta đã đoạt cơ giải thoát.”
Khi chúng ta thành tâm dâng hiến cho Đức Chí Tôn xử dụng.Chúng
ta sẽ nhận được lệnh phân công đi làm một công việc nào đó tuỳ theo khả năng của
từng người.
“ Trong một thời cúng, Bần Ðạo đã căn dặn nhiều phen trọng
hệ hơn hết là khi dâng Tam Bửu, dầu cho tinh thần suốt buổi cúng có nhiều lúc
lo ra đi nữa, đến khi dâng Tam Bửu, khuyên cả thảy định thần đặng mật niệm,
dâng ba bửu trọng hệ cho Chí Tôn, tức là giúp sức Bần Ðạo Hành Pháp dễ dàng một
chút đó.” (Thuyết Ðạo QII / tr 25).
Cầu nguyện.
Cầu nguyện có hai phần cầu là xin tha tội cho cá nhân và
xin ban phước lành cho nhân loại và chúng sanh.Nguyện là sự mong muốn thực hiện
hai đại nguyện là phổ độ chúng sanh và mở rộng nền Đại Đạo. Đây cũng là một yếu
tố quan trọng trong pháp môn Tịnh độ tông là Tín, hạnh,nguyện.
Cuối bài kinh cúng tứ thời có ngũ nguyện, tức là 5 câu
nguyện hằng ngày của người đệ tử Cao Đài như sau:
“ Nhứt nguyện Đại Đạo hoằng khai, có nghĩa là:
Điều nguyện thứ nhất: Con mong muốn và quyết tâm hoằng
khai nền Ðại Ðạo.
Nhì nguyện phổ độ chúng sanh, có nghĩa
là:
Ðiều Nguyện thứ hai: Con mong muốn và quyết tâm phổ độ
chúng sanh.
Tam nguyện xá tội đệ tử, có nghĩa là:
Ðiều nguyện thứ 3, con cầu xin Ðức Chí Tôn tha tội cho
con.
Tứ nguyện thiên hạ thái bình, có nghĩa là:
Ðiều nguyện thứ 4, con cầu xin cho tất cả mọi người trên
cõi trần được sống yên ổn hòa bình.
Ngũ nguyện Thánh Thất an ninh , có nghĩa
là:
Ðiều nguyện thứ 5, con cầu xin cho tất cả, từ CKVT (Càn
Khôn Vũ Trụ) đến con người, cầu xin cho Hội Thánh, đều được an ninh, điều hòa
trật tự, tiến hóa tốt đẹp.”
(Trích trong Giải nghĩa Kinh Thiên đạo của Hiền tài Nguyễn
văn Hồng)
Người tín đồ Cao Đài mỗi ngày lập đi lập lại lời đại nguyện
hoằng khai đại đạo và phổ độ chúng sanh sẽ dẫn dắt họ tới thực hiện ý nguyện đó
đây là bí pháp của sự cầu nguyện.
“ Sự cầu nguyện có cảm ứng với Chánh Trị Thiêng Liêng tức
là các Ðấng Vô Hình đều rõ biết mọi sự hành tàng nơi cõi thế, triết lý về hình
thể của con người, thọ tinh cha huyết mẹ sản xuất ra, thì có sự cảm giác thiêng
liêng đối cùng nhau rất mật thiết, cho nên một người con lúc đi làm ăn xa nhà,
khi cha mẹ có bịnh hoạn hay xảy ra điều gì tai biến, thì thân thể của người con
sẽ có điềm máy động; giựt thịt, máy mắt, hoặc là ứng mộng thấy rụng răng và các
điều khác..v.v... đó là về phần tinh khí hình thức của con người, còn về phần
linh tánh thì do nơi Ðức Chí Tôn ban cho nhứt điểm lương tâm, nó có cảm giác
cùng Chí Linh, cho nên khi ta hữu sự thì thành tâm cầu nguyện.”
(thuyết đạo Đức Hộ Pháp ngày 8 tháng 01 năm Đinh hợi
1947).
Luyện thần định trí.
Khi đọc kinh tâm thường suy nghĩ lung tung mình tập thu
nó về với lời kinh.
Trong khi đọc kinh tâm thường lo ra nghĩ ngợi những chuyện
khác bên ngoài làm cho người tu quên lời kinh hoặc đọc sai phải tỉnh thức biết
mình đang sai chỗ nào mà điều chỉnh ngay lập tức. Đây là cách để qui tâm về một
mối là đọc đúng lời kinh. Thời gian tập luyện mỗi ngày sẽ giảm bớt phóng tâm lần
lần định trí và phát sinh trí huệ.
Thông công với các Đấng Thiêng Liêng.
Khi dâng tam bửu là lúc người tín đồ thông công với Đức
Chí Tôn và các Đấng Thiêng Liêng.
Nếu dâng tinh khí thần với một tấm lòng thành kính và thiết
tha mong mỏi Đức Chí Tôn sử dụng thì chúng ta sẽ nhận được sự phân công âm thầm
mình sẽ tự biết.
Luyện tập thân thể và tập làm chủ cái thân.
Tư thế quỳ trong thời cúng là một tư thế độc đáo thoải
mái dễ chịu cột sống thẳng đứng đây là một tư thế quan trọng trong Yoga
nó điều chỉnh gân mạch thần kinh hoạt động thông suốt và đúng với nhiệm vụ làm
gia tăng sức khoẻ.
Còn một cái ý nghĩa quan trọng là tập làm chủ cái thân bó
buộc nó vào kỹ luật bởi vì bản chất của thân là lười biếng và ham thích hưởng
thụ không muốn bị bó buộc.
Đức Chí Tôn có dạy rằng :
“ Luôn dịp, Thầy nói cho các con biết :
Cúng Tứ Thời có ích cho các con lắm, chớ không phải ích
chi cho Thầy. Nếu cúng được thường thì lòng dạ nở nang, tứ chi luân chuyển, có
nhiều khi tật bệnh tiêu diệt. “ (TNST. Q1 B 39)
Tụng thêm các bài kinh sau khi chấm dứt cúng tứ thời.
Sau khi tụng xong các bài kinh tứ thời chúng ta phải thường
xuyên tụng thêm những bài kinh Di lặc, Cứu khổ và kinh Sám hối.
Tụng kinh Di lặc.
Nhằm mục đích cầu xin Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu, Đức Di Lặc
Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát,Thất Nương Diêu Trì Cung và
Thần Thánh Tiên Phật xá tội và độ rỗi các vong linh chết vì chiến tranh,khổ ách
,tam tai,bệnh tật và nghiệt chướng sớm được siêu thoát .Thêm vào đó cũng cầu
nguyện cho các vong linh cửu huyền thất tổ Ông Bà,Cha mẹ,Cô Dì,Chú Bác,Cậu Mợ,Anh
Chị em và con cháu sớm được siêu thoát.
Tụng kinh cứu khổ.
Nhằm mục đích cầu xin Đức Chí Tôn,Đức Phật Mẫu,Di Lặc Bồ
tát,Quan Thế Âm Bồ Tát và Thần Thánh Tiên Phật cứu khổ cứu nạn cho chúng sanh
,cho cá nhân ,cho gia đình.
Tụng kinh sám hối.
Tụng kinh sám hối vào các ngày sóc vọng mùng một và rằm .
Nhằm mục đích xem xét bản thân nếu có lỗi phải mau ăn năn
chừa lỗi tránh xa những điều ác và thực hành những điều thiện.
Pháp môn cúng tứ thời bao gồm tinh hoa của tất cả
các pháp môn của các tôn giáo hiện nay trên thế giới.
Tịnh độ tông, thiền tông và mật tông của Phật giáo.
Trong bài kinh dâng hoa đã nói rõ “ Từ bi giá ngự rạng
môn Thiền Đệ tử mừng nay hữu huệ duyên”.Trong bài dâng rượu “Thiên ân huệ
chiếu giáng Thiền Minh”.
Cúng Tứ thời là môn tu Thiền sẽ được Đức Chí Tôn ban cho
Trí Huệ tức là giáng Thiền minh.
Năm câu nguyện cuối bài kinh và ba câu nguyện khi dâng
tam bửu là bí pháp của mật tông Tây Tạng. Những câu nguyện này được lập đi lập
lại nhiều lần nó tạo một hình ảnh rõ ràng trên không tạo ra nguồn năng lượng tốt
để hoá giải những năng lượng xấu.Hình ảnh của những lời cầu nguyện các Đấng
Thiêng Liêng sẽ nhìn thấy và tạo điều kiện thuận lợi cho người cầu nguyện thực
hiện được ước muốn của mình.
Cảm ứng của Tiên giáo.
Trong bài kinh dâng tam bửu là dâng tiên hoa,tiên tửu,và
tiên trà do đó có người cho Đạo Cao Đài là Đạo Tiên.Ngoài ra trong khi dâng tam
bửu người tu đưa tay lên trán cầu nguyện dâng cả thể xác của con cho Đức Chí
Tôn dùng phương nào thì dùng sau khi dứt bài kinh dâng hoa.Sau bài kinh dâng rượu
Cầu nguyện xin dâng cả tinh thần và trí não của con cho Chí Tôn dùng phương nào
thì dùng.Sau bài kinh dâng trà thì cầu nguyện xin dâng cả linh hồn cho Chí Tôn
dùng phương nào thì dùng.
Đức Hộ Pháp đã nói rõ đây là bí pháp giải thoát bởi vì
Khi chúng ta dâng cả thể xác tinh thần và linh hồn cho Đức Chí Tôn sử dụng thì
những việc làm của chúng ta không phải là ta chủ ý mà là làm theo lệnh của
Đức Chí Tôn.Điều quan trọng là chúng ta có thành tâm hay không bởi vì tâm thành
tất ứng.
Vạn thù qui nhứt bổn hay qui tâm về Thái cực của Nho
giáo.
Pháp môn cúng tứ thời bao gồm pháp tu của Nho giáo hay
còn gọi là Thánh đạo.
Thiên bàn là Thái cực đồ là bản đồ thái cực nhìn vào đó để
tu. Nguyên lý là thái cực sanh lưỡng nghi lưỡng nghi sanh tứ tượng tứ tượng
sanh bát quái, bát quái biến hoá vô cùng sanh càn khôn vạn vật.
Tâm của con người bình thường thì trong sáng huyền diệu
thông hiểu vạn vật và rất linh diệu tức là ngôi thái cực. Khi tâm tiếp xúc với
cảnh trần sanh muôn vạn trùng trùng ý niệm nên bị mờ tối không còn linh tánh
đúng với câu nhất bổn tán vạn thù từ một mà sanh ra vô số.Do đó phép tu là phải
đi ngược trở về thái cực dẹp bỏ hết ý niệm đúng như câu Vạn thù qui nhất bổn tất
cả ý niệm trở về gốc là một hay là thái cực.
Tóm lại pháp môn cúng tứ thời là pháp môn tổng hợp các tinh
hoa của tất cả pháp tu của các tôn giáo lớn trên thế giới như câu kinh phổ tế tổng
pháp tông trong bài kinh Ngọc hoàng Thượng đế.
Pháp môn này phát sinh trí tuệ và đưa tới giải thoát.
Thất nương Diêu trì cung đã dạy Lễ bái thường hành tâm đạo
khởi ý nghĩa là cúng bái thường xuyên trí huệ phát sinh.
Mỗi ngày cúng tứ thời là mỗi ngày khai mở trí huệ nói một
cách khác mỗi ngày càng hiểu rõ ý nghĩa của lời kinh tiếng kệ hay càng hiểu rõ
con đường đi đến giải thoát.Nhờ trí huệ khai mở đức tin càng gia tăng nhờ
vậy sự tu hành càng tinh tấn đây là một chu kỳ tiến bộ càng lúc càng cao và
càng gần bến bờ giải thoát.
Đức Quan Âm Bồ Tát cũng giáng cơ dạy rằng :
“ Các em phải cúng kiếng thường.
1. Một là tập cho chơn thần được gần gũi các Đấng thiêng
liêng cho đặng sáng lạn.
2. Hai là cầu khẩn với Đức Đại Từ Bi tha thứ tội tình cho
các em và cả chúng sanh.
3. Ba là có tế lễ thì tâm phải có cảm, cảm rồi mới ứng, ứng
là lẽ tự nhiên.
4. Bốn là tâm có cảm thì lòng bác ái mới mở rộng, mà nhứt
là khiếu lương tri lương năng của các em cũng nhờ đó mà lần hồi thành ra mẫn huệ”.
Không phân biệt già trẻ, nghèo giàu, sang hèn, vua quan
tôi tớ đều tu được.
Đây là một pháp tu già trẻ bé lớn giàu nghèo sang hèn đều
tu tập giống nhau nếu là tín đồ của Đạo Cao Đài .Tuy nhiên sự khai mở trí huệ
cao thấp tùy theo đức tin và lòng chân thành cầu đạo của từng cá nhân.
Không bị tẩu hoả nhập ma không bị bất cứ một phản ứng bất
lợi nào cho người tu.
Đây là pháp tu cực kỳ an toàn bởi vì gần một trăm năm kể
từ khai đạo đến nay chưa có một sự cố nào xảy ra và không có bất kỳ một phản ứng
nào có hại cho sức khỏe của người tu.
Trí huệ từ từ khai mở nhanh chậm do công phu tu tập, quyết
tâm và đức tin mạnh yếu của mỗi người.
Nhiều người tu theo pháp môn này đã khai mở trí huệ tuyệt
vời như Giáo hữu Thượng Tý Thanh mặc dù trình độ học vấn không cao nhưng thực
hành cúng tứ thời rất nghiêm chỉnh. Khi tới giờ cúng thì Ông lập tức ngưng tất
cả mọi việc để thực hiện đàn cúng. Nhờ thế Ông rất thông hiểu giáo lý và đã
thuyết trình tại nhà hát Hà nội trước đông đảo người tham dự là các chính khách
,chính quyền cao cấp, học giả, sinh viên học sinh được hoan nghênh nhiệt liệt.
Kết luận.
Tứ thời là một pháp môn tổng hợp tất cả tinh hoa của các
pháp môn của các nền tôn giáo lớn trên thế giới do chính Đức Chí Tôn lập ra
.Tuy nhiên người tín đồ Đạo Cao Đài rất thờ ơ không xem đó là một pháp môn. Bởi
vì Thiền thì phải tịnh phải yên lặng cớ sao pháp tu nầy vừa đọc kinh vừa lạy vừa
gật đầu có nghĩa là vừa ồn ào vừa cử động.
Hai điểm quan trọng mà người tu cần lưu ý là tập trung
theo dõi lời kinh và tư thế quỳ thẳng lưng cũng như thường xuyên gật
đầu và lạy.
Pháp môn này khi đọc kinh người tu theo dõi lời kinh . Nếu
để tâm phóng ra ngoài sẽ không còn biết mình đọc lời nào trong bài kinh. Do đó
phải luôn tỉnh thức biết mình đang đọc chữ gì trong bài kinh đây là phép tập
trung tư tưởng.Thiền sư Nhất Hạnh cả đời tu tập mới biết được tập trung tư tưởng
là sự tỉnh thức. Mình ăn mình biết mình ăn,mình đọc kinh mình biết mình đọc
kinh.Nếu mình đang đọc “đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp” mà tâm mình nghĩ tới
món ăn thì mình chỉ biết món ăn mà không biết mình đã đọc “đạo gốc bởi lòng
thành tín hiệp”.Tuy miệng đọc mà ý không theo dõi để tâm vào lời kinh đó là mê
nên không nhớ mình đọc gì. Áp dụng sự tỉnh thức này vào mọi sinh hoạt hàng ngày
gọi là thiền…
Pháp môn cúng tứ thời tại sao phải động bởi vì khi quỳ
lâu sẽ mỏi cổ ,mỏi lưng,mỏi gối người tu sẽ bị phân tâm do đó lạy gật là cách để
giải quyết sự khó chịu của thân.
Ngoài ra Đức Hộ Pháp đã dạy trong những bài Thuyết
đạo Cúng tứ thời là pháp cho linh hồn ăn Thân xác cần thức ăn của thân xác linh
hồn phải có thức ăn của linh hồn. Nếu người tu biết thưởng thức hương vị của thức
ăn này sẽ thấy được sự ích lợi của pháp tu và siêng năng cúng tứ thời.
Đức Hộ Pháp có dạy như sau:
“ Ta nuôi linh hồn bằng gì? Vật thực nuôi sống bằng xác
thịt, còn linh hồn sống đặng là nhờ đạo đức tinh thần đó vậy. Ta tu tức là ta
tìm phương bảo trọng cho tồn tại đạo đức tinh thần đặng nuôi linh hồn hầu đạt vị
Thần, Thánh, Tiên, Phật dìu dẫn bảo trọng lấy nó để có đủ lực lượng quyền năng
giong ruổi trên con đường Thiêng Liêng Hằng Sống.
Đạo đức tìm nơi đâu mà có đặng? Tức nhiên tìm nơi cửa
Thiêng Liêng Hằng Sống mới có, mà tìm nơi cửa Thiêng Liêng tức là cửa Đạo. Buổi
ăn của linh hồn là buổi ta vô Đền thờ cúng đấy”.(TĐ ĐHP)
“ Khi cúng Tứ Thời, chúng ta tụng kinh thì cần phải học hỏi
để hiểu ý nghĩa lời kinh. Với tấm lòng kính thành, hợp với sự hiểu biết ý nghĩa
lời kinh, làm cho tâm hồn ta yên lặng, bớt vọng động, bớt phóng tâm nghĩ quấy,
để lần lần chúng ta kềm giữ cái tâm, cái ý, để sau cùng đạt được trạng thái định
ý định tâm. Tụng kinh cũng là để cho lời kinh dạy cái tâm của ta, vì các kinh tụng
đều là tâm kinh.
Mặt khác, khi chúng ta tụng kinh thì những vong linh vô
hình ở chung quanh chúng ta cũng được nghe kinh, nhờ đó họ có thể sớm giác ngộ
mà hưởng được ân huệ của các Đấng thiêng liêng, sớm cho đi tái kiếp.” (Trích
trong Giải nghĩa kinh cúng tứ thời của Hiền tài Nguyễn văn Hồng)
* Trung Dung Đạo.
(12-2021)
Tóm lược phần
thảo luận nhóm:
1 - Tại sao phải
cúng vào các thời tý ngọ mẹo dậu ?
Hai thời mẹo
và dậu là lúc hai khí âm dương giao hòa còn thới tý là lúc khí âm cực thịnh khí
dương mới sanh còn yếu ớt dễ hấp thụ.Thời ngọ là khí dương cực thịnh khí âm mới
sanh hấp thụ khí âm rất dễ. Cúng bốn thời này để điều ḥa khí âm dương trong
thân xác của người tu tăng cường sức khỏe chống bệnh tật và có ảnh hưởng tốt
làm chơn thần người tu ngày càng sáng suốt mẫn huệ. . .
2 - Các nơi
trên thế giới có nên cúng theo giờ Việt Nam không ?
Khí âm dương
giao hòa hay mới sinh ra đều theo giờ khắc của mỗi nước nên cứ cúng theo giờ
tý, ngọ, mẹo, dậu, của mỗi nơi mình ở là tốt rồi.
3 - Có cách
nào giúp người đang đi làm kiếm sống có thể cúng khi đến giờ cúng hàng ngày được
không ?
- Khi mình
đang làm việc mà đến giờ cúng, mình có thể tay chân vừa làm việc và mình đọc
kinh thầm trong tâm cũng được.
- Nếu không
có điều kiện thời gian để cúng mình có thể tịnh tâm một phút để niệm danh Thầy
rồi dâng Tam bửu kế đến đọc ngũ nguyện như lời dạy của Đức Hộ Pháp dặn các vị
chức sắc khi đang nằm dưỡng bịnh mà đến thời cúng thì ngồi dậy dâng Tam bửu cho
Chí Tôn.
- Ở Trí Huệ
Cung, đến giờ cúng khi nghe ba tiếng chuông vang lên thì những người làm công
quả xung quanh ngừng làm việc và ngồi xếp bằng tại chỗ đọc kinh thầm cho hết thời
cúng rồi mới làm việc tiếp...Chúng ta nên học theo cách nầy nếu có thể được.
4 - Làm sao
để tập trung tư tưởng khi cúng ?
Thông thường
trong khi đọc kinh cúng nhưng tâm chúng ta cứ suy nghĩ hết chuyện này đến chuyện
khác, tức là tâm không được thanh tịnh. Mà tâm không được thanh tịnh thì thời
cúng không có hiệu quả mà có khi mang tội nữa.
Muốn giữ tâm
thanh tịnh khi cúng hay chỉ tập trung tư tưởng vào lời kinh tiếng kệ và tín ngưỡng
Trời Phật thì có nhiều cách tùy theo mỗi người nhưng cách thông thường nhất là
mắt ta chăm chú nhìn lên Thiên Nhãn và tai ta lắng nghe âm thanh lời kinh tiếng
kệ...Khi tâm có nhảy ra ngoài thì ta quay trở lại liền, lâu ngày tâm ta sẽ bớt
đi vọng động.
Lưu ý nếu mắt
nhìn Thiên nhãn hay nhìn đèn thái cực thì ý không thể để vào hai chỗ là thiên
nhãn và lời kinh cùng một lúc được.Do đó mắt nhìn Thiên nhãn nhưng ý để vào lời
kinh thì ý mới qui nhất được.
5 - Dâng
tam bửu thế nào cho đúng để đạt được hiệu quả tốt ?
Theo lời dạy
của Đức Hộ Pháp, trong thời cúng quan trọng nhất là khi dâng tam bửu cho Đức
Chí Tôn vì đây là một bí pháp giải thoát. Nên dầu trong đàn cúng nhiều lúc lo
ra, suy nghĩ chuyện này chuyện nọ, nhưng đến phần dâng tam bửu ta phải rán tập
trung tư tưởng, thành tâm dâng cả thể xác, trí não và linh hồn lên cho Đức Chí
Tôn toàn quyền sử dụng...
Khi ta thành tâm hiến dâng và nguyện như vậy, Đức Chí Tôn sẽ tạo cơ hội cho chúng ta có phương tiện, điều kiện nhập vào trường thi công quả, và khi đoạt đủ công quả thì ta mới có thể đoạt cơ giải thoát khỏi luân hồi sanh tử được...
NỐI BƯỚC. N°I [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13] [14] [15] [16] [17]