TÌM HIỂU VỀ ĐẠO LUẬT MẬU DẦN (1938) * Quang Thông

1 - Những sự kiện quan trọng nơi Tòa Thánh từ sau khi Đức Quyền Giáo Tông đăng Tiên  đến 1938.
-Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt qui thiên vào ngày 13-10-năm Giáp Tuất (19-11-1934), đến ngày 26-10-Giáp Tuất liên đài nhập bửu tháp. Cũng cùng ngày nầy, Hội Thánh lưỡng đài họp đồng lòng giao quyền hành của Đức Quyền Giáo Tông cho Đức Hộ Pháp. Sau đó Đức Lý cũng đồng ý giao cho ĐHP Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài qua bài thi khoán thủ:
Hộ giá Chí Tôn trước đến giờ,
Pháp luân thường chuyển máy thiên cơ...
- Đức Lý Giáo Tông còn xác nhận lại một lần nữa vào ngày 18-10-Át hợi (13-11-1935, TNHT, Q 2).
"...Hộ Pháp bạch: Thiên thơ đã đổi, đệ tử xin giao quyền hành của Quyền Giáo Tông lại cho Ngài đặng Ngài đủ oai quyền cầm Thiên thơ vững chặc.
Cười Lão e cho, một là Lão đã cho, không lẽ lấy lại, hai là hành pháp thì dễ, hành hình thì khó, không có nữa quyền trị thế của Lão nơi tay thì Hộ Pháp có thể nào điều hành Hội Thánh cho đặng. Ấy vậy cứ để y".
- Đàn cơ ngày Rằm tháng 2 Ất Hợi (19-3-1935) : ĐHP cầu Đức Lý phong thưởng cho một số vị đã dày công với Đạo mà từ trước đến giờ chưa được phong thưởng.
Đợt cầu phong nầy gồm 1 vị thăng phẩm Phối Sư, 25 vị thăng phẩm Giáo Hữu, 126 vị thăng phẩm Lễ sanh, trong đó có 1 vị Phạm Môn thăng phẩm Giáo Hữu và 29 vị thăng phẩm Lễ Sanh Thiện. Sau đó Đức Hộ Pháp lựa chọn 20 vị Lễ Sanh Giáo Thiện bổ đi làm Đầu Họ Đạo Phước Thiện thuộc 20 Họ Đạo Nam Kỳ. Chính mình Đức Hộ Pháp đứng ra dạy các vị nầy về kinh kệ, hiến lễ, cách giao tiếp trong Đạo và ngoài Đạo,...
Sau khi cầu phong cho các vị công quả Phạm Môn vào hàng Lễ Sanh Giáo Thiện (chỉ có ông Trịnh Phong Cương được phẩm Giáo Hữu), Đức Hộ Pháp định bổ mỗi vị lãnh trách nhậm làm Đầu Họ Phước Thiện một tỉnh. Như vậy, Đức Hộ Pháp đã khai mở CQPT kể từ ngày nay (15–2–Ất Hợi).
Phạm Môn đã bị Chánh Quyền Pháp đóng cửa nên biến thành CQPT khắp cả các địa phương. Đức Hộ Pháp chọn 20 vị Lễ Sanh Giáo Thiện để bổ đị làm Đầu Họ Phước Thiện 20 tỉnh trong Nam Kỳ, rồi dạy bắt thăm, hễ ai trúng đâu thì đi đó. Đức Hộ Pháp lại ban cho những vị được cầu phong mỗi vị có một đạo hiệu riêng...
Tuy nhiên phải đợi đến 1938 với Đạo Luật Mậu Dần, ấn định Thập nhị đẳng cầp thiêng liêng thì Cơ Quan Phước Thiện mới chính thức ra đời...
- Tiếp theo là Đàn cơ ngày 16 tháng 2 Ất Hợi (20-3-1935):
Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn về cơ dạy rằng Ngài được Thánh Chỉ Đức Chí Tôn đến lập ra 7 phẩm chức sắc cấp thấp của Hiệp Thiên Đài từ Sĩ Tải đến Tiếp Dẫn Đạo Nhơn. Đồng thời Ngài phong cho ông Huỳnh Hữu Lợi và 5 vị nữa làm Sĩ Tải Hiệp Thiên Đài. Đây là 6 vị chức sắc cấp dưới đầu tiên của Hiệp Thiên Đài...
Và cũng mở đầu cho việc lập nên Cơ quan Tòa Đạo trong Đạo Luật Mậu Dần 1938. Sau nầy Tòa Đạo đổi tên thành Pháp Chánh...
Đến ngày 11-7-1936, Đức Hộ Pháp ban hành sắc lệnh lập thêm phẩm Luật Sự dưới phẩm Sĩ Tải...
- Ngày mùng 7 tháng 4 Ất Hợi (9-5-1935).
Ban Chỉnh Đạo Bến Tre làm lễ đăng điện cho ông Nguyễn Ngọc Tương lên ngôi Giáo Tông nơi Thánh Thất An Hội Bến Tre, tức là trở thành một chi phái...
- Theo một Sắc lịnh của ĐHP ngày 12-4-Ất Hợi (145 -1935) Toàn quyền Robin cho Đạo Cao Đài được tự do tín ngưỡng, tự do cúng kiếng…Đây là thời kỳ thuận lợi để phát triển Đạo…
- Từ ngày 23-7 đến 4-8-Ất Hợi (1-9-1935) Các Đấng giáng cơ ban cho Kinh Tận Độ vong linh, đó là kinh Thiên Đạo tức là Tân Kinh của ĐĐTKPĐ, còn kinh Thế Đạo Bà Đoàn Thị Điểm giáng cơ ban cho kể từ ngày 17-1-Bính Tý (1936).
- Ngày 1-11-Bính Tý (14-12-1936): Đức Hộ Pháp làm lễ khởi công xây dựng Tòa Thánh.
Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa, Chưỏng quản PT dạy các vị Đầu Họ PT trong 20 tỉnh Nam Kỳ tổ chức các sở Lương điền, Công nghệ, Thương mãi, phải dành hoa lợi gởi về Tòa Thánh để giúp lương thực cho các công thợ xây cất, đồng thời chiêu mộ các công quả có tay nghề xây dựng: Thợ hồ, thợ mộc, thợ cưa,. thợ sắt, thợ đắp vẽ, vv... đưa về Tòa Thánh, nhập với số công quả nơi Tòa Thánh, tổng cộng được 500 công quả nam và nữ làm việc thường xuyên.
 
2 - Sự hình thành Đạo Luật Mậu Dần (1938).
Sau khi một số chức sắc ly khai khỏi Tòa Thánh thành lập các chi phái, từ năm 1935 ĐHP đã xin cầu phong thêm chức sắc CTĐ. biến đổi cơ quan Phạm Môn ra Phước Thiện, lập thành 12 đẳng cấp chức sắc của Cơ Quan Phước Thiện. Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn lập thêm 7 cấp chức sắc cấp thấp của HTĐ.
Đến đầu năm Mậu Dần (1938) Đạo Luật Mậu Dần thành hình với 4 cơ quan là Hành Chánh, Phước Thiện , Tòa Đạo và Phổ Tế,...
Đạo Luật Mậu Dần được thành hình qua 2 kỳ họp của cả chư chức sắc lưỡng đài.
- Kỳ họp thứ nhứt: vào ngày mùng 9 tháng Giâng Mậu Dần, ĐHP giải thích nhiệm vụ của 4 cơ quan và dạy các vị chức sắc HTĐ họp nhau soạn thảo các điều luật và phương pháp thật hành cho mỗi cơ quan.
- Kỳ họp thứ hai nhóm vào ngày 14 và 15 tháng Giêng Mậu Dần: Chức sắc mỗi cơ quan bàn thảo bỏ thăm công nhận . Cuối cùng Bộ Luật được thành hình với sự phê chuẩn của Đức Hộ Pháp.
3 - Sơ qua một số điểm nổi bật trong Đạo Luật Mậu Dần:
Hiện nay trong nền Chánh Trị Đạo của Đức Chí Tôn có 4 cơ quan là:
Hành Chánh, Phước Thiện,Tòa Đạo, Phổ Tế.
 
HÀNH CHÁNH là cơ quan để thi hành các luật lịnh của Hội Thánh hoặc của chúng sanh dâng lên mà đã có Quyền Chí Tôn phê chuẩn, nghĩa là buộc chúng sanh phải tuân y Luật Pháp mà đi trên con đường Đạo Đức cho đặng thong dong, hòa bình, trật tự, hạnh phúc, an nhàn, tức là thật hành cả khuôn viên luật pháp cho ra thiệt tướng.
PHƯỚC THIỆN là cơ quan bảo tồn sanh chúng trên đường sanh hoạt nuôi sống thi hài, tức là cơ quan giải khổ cho chúng sanh, tầm phương bảo bọc những kẻ tật nguyền, cô độc, dốt nát, ít oi, hoặc giúp tay cho bên hành chánh thi hành Luật Pháp cho đặng dễ dàng trọn vẹn.
TÒA ĐẠO là cơ quan bảo thủ Chơn Truyền, gìn giữ Luật Pháp, chăm nom chư Chức Sắc, Chức Việc và Đạo Hữu thi hành phận sự, chở che những kẻ yếu tha, bênh vực những người cô thế, hoặc tiếp cả sự uất ức bất công của toàn sanh chúng, tức là giữ nét công bình trên mặt Đạo; lại cũng là một cơ quan giúp cho Hành Chánh, Phước Thiện và Phổ Tế thêm oai quyền mạnh mẻ, tôn nghiêm đặc sắc.
PHỔ TẾ là cơ quan để cứu vớt hoặc độ rỗi những người lạc bước thối tâm, cùng an ủi khuyên lơn những kẻ đã bị luật pháp buộc ràng mà phế vong phận sự, hay là độ rỗi những kẻ hữu tâm tầm Đạo.
Tổng hợp 4 cơ quan nầy lại gọi là toàn thể Chánh Trị Đạo.
A - Hành Chánh:
- Chiếu theo Thánh Giáo của Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, thì Chánh Trị Sự phải có 5 năm công nghiệp đầy đủ với chức trách của mình, sau nữa phải có tờ kiết chứng công nghiệp, tờ tánh hạnh, trường trai, đạo đức, đủ tư cách và phải độ đặng 300 người nhập môn (chẳng kể số Đạo Hữu của cựu Chánh Trị Sự đã độ đặng) thì mới đặng đem vào sổ cầu phong.
- Ngoài ra, nếu còn vị nào có công nghiệp vĩ đại mà có đủ bằng cớ và chiếm đặng lòng tín nhiệm của chúng sanh đồng dâng lên, hoặc công chúng hoan nghinh, thì cũng đặng dự vào sổ cầu phong, nhưng buộc phải là người có chơn trong Đạo.
- Mỗi vị Chức Sắc đã đủ 5 năm công nghiệp và xứng đáng với chức trách của mình, mới đặng đệ ra Quyền Vạn Linh công nhận.
- Nếu những vị nào dưới 5 năm công nghiệp mà có lập đặng đại công, toàn công chúng đều hoan nghinh và Tòa Đạo minh tra đủ lẽ, thì sẽ đặng đệ lên Quyền Chí Tôn cầu xin thăng thưởng. (Thăng thưởng về công nghiệp phi thường thì duy có Quyền Chí Tôn mới ban cho đặng mà thôi).
- Trong một năm là 24 kỳ Đàn, mà những con cái biếng nhác của Đức Chí-Tôn không đến thăm viếng Người ít nữa là 20 kỳ Đàn, thì Hội Thánh sẽ không ngó ngàng đến nữa, dầu cho trong đường Đời hay là trong đường Đạo của họ cũng vậy. Nếu như có bận việc chi phải buộc mình vắng mặt, thì phải có tờ giấy Chức Sắc Thiên Phong vi chứng mới đặng.
- Hội Thánh phải tạo Đền Thờ của Đức Chí-Tôn đặng làm nền móng sự tín ngưởng của cả Chúng Sanh, vì Đạo do nơi đó mà xuất hiện.Vậy thì dầu cho phải hao tổn, khổ nhọc bao nhiêu mà còn có một năm nữa là đoạt thành hy vọng, thì xin toàn Đạo cũng vì mục đích cao thượng ấy, để cả đức tin vào đặng tạo lập Toà Thánh trong một năm nữa cho hoàn tất, hầu thiết lễ khánh thành trong năm nay, là năm Kỷ Niệm Khai Đạo và cũng là năm đáo ngươn hội 12 con giáp Đức Chí Tôn lập thành Đại Đạo. Vậy thì làm thế nào ngày Rằm tháng 10 năm Mậu Dần nầy cũng phải đem quả Càn Khôn vào Bát Quái Đài mới đặng.
- Mỗi vị Đạo Hữu Nam Nữ phải giúp cho Hội Thánh 5 ngày công quả đặng tu tạo Đền Thờ Đức Chí Tôn và các dinh thự.
- Phải lập Hạnh Đường nơi Tòa Thánh và Văn Phòng Đầu Tỉnh Đạo đặng giáo hóa Chức Sắc Thiên Phong và Chức Việc, cùng lập Học Đường đặng dạy dỗ trẻ em cho rõ thông chữ nghĩa và kinh kệ. Các Thánh Thất đều phải có Học Đường. Mỗi năm mở khoa mục khảo dượt một lần đặng ban cấp bằng hay là giấy chứng nhận cho những vị thi đỗ. Một hạng được hưởng học bổng (boursiers) là con của Chức Sắc Thiên Phong đương quyền hành chánh, những trẻ em mồ côi, hoặc con của Đạo hiến thân trọn vẹn.
- Toàn Đạo Nam Nữ đồng công nhận và tín nhiệm Quyền Thống Nhứt của Đức Hộ-Pháp cho đến ngày có Giáo-Tông ra mặt.
- Toàn Đạo Nam Nữ giao Quyền Chánh Trị Đạo cho Quyền Thống Nhứt cầm cho đến ngày có Đầu Sư Nam Nữ chánh vị.
- (*) Phụ chú: Bản cũ ấn bản năm Nhâm Thìn 1952 có phần sau đây:
Những Khoản Thêm Vào Bộ Đạo Luật và Ban Hành Kể Từ Ngày Hôm Nay:
1 - Thủ tiêu 2 chữ Tuyệt Dục trong Tân Luật.
2 - Rộng ơn cho thỏa lời ước vọng của nhơn sanh, là để tự do cho hàng Lễ Sanh giữ trai tâm bao nhiêu tùy ý, song chẳng đặng dưới 10 ngày.
3 - Truất quyền dự Hội Nhơn Sanh, quyền Hành Chánh và quyền Hành Pháp cho những vị Lễ Sanh nào chưa trường trai.
4 - Cho tự do vợ chồng của Chức Sắc muốn theo cùng nhau cũng đặng, nhưng thuộc về phần Đời mà thôi, chớ chẳng dính dấp chi với Đạo, vì Chúng Sanh duy biết nuôi người thay mặt Chí Tôn, chứ chưa hề biết nuôi vợ chồng của vị Chức Sắc nào cả.
5 - Vị Chức Sắc Thiên Phong Nam Phái nào có vợ con nghèo nàn, nhỏ dại thì Hội Thánh sẽ định cho 1 số tiền cứu giúp hằng niên, khi đã minh tra đủ bằng cớ rằng vợ con của vị ấy không gia thế không phương làm, bần hàn, đói khó.
6 - Còn bên Chức Sắc Nữ Phái thì Hội Thánh không có định cấp dưỡng cho chồng con chi hết, vì chẳng lẽ người chồng nuôi con không nổi, bất tài đến đổi phải nhờ vợ.
7 - Nếu như vị Chức Sắc Nữ Phái nào rủi góa bụa mà con còn thơ dại, khi đã minh tra đủ lẽ thì Hội Thánh sẽ định 1 phần cấp dưỡng nuôi con.
 
B - PHƯỚC THIỆN.
Luật tuyển chọn và thăng thưởng:
Bất luận Nam hay Nữ, ai ai cũng đặng dưới quyền tuyển chọn vào Phước Thiện của Đạo, hoặc người có Đạo, hoặc người chưa có Đạo, muốn vào Phước Thiện thì phải lập tờ hiến thân trọn đời, xin làm công quả cho cơ sở Phước Thiện. Người nào mới nhập vào Phước Thiện cũng phải khởi đầu làm công quả theo hạng Minh Đức.
Bậc Minh Đức muốn lên bậc Tân Dân phải có 3 năm công nghiệp đầy đủ với chức trách, phải có tờ kiết chứng công nghiệp, tờ khai tánh đức tốt, trường trai và tư cách xứng đáng mới đặng dự vào sổ cầu phong.
Người nào nhập vào Phước Thiện đều phải do đẳng cấp y theo trên đây mà hành sự, phải có đủ 3 năm công nghiệp Minh Đức mới đặng cầu thăng thưởng lên bậc Tân Dân. Tân Dân phải có đủ 3 năm công nghiệp mới đặng lên Thính Thiện, v...v...
Bậc Hành Thiện mà muốn lên Giáo Thiện thì ngoài ra luật 3 năm công nghiệp, còn phải nuôi dưỡng đủ 12 gia tộc mới đặng.
Mỗi đẳng cấp phải có đủ 3 năm hành thiện mới mong bước qua đẳng cấp khác.
Ngoại trừ ra ai có đại công mà có đủ bằng cớ và chiếm đặng lòng tín nhiệm của sanh chúng dâng lên thì cũng đặng dự sổ cầu phong. Những vị nào để hết tâm vì Đạo mà phải chịu khổ hạnh hoặc bị tù tội ngục hình cũng đặng dự vào sổ cầu phong ngoài luật đã định.
Quyền phong thưởng Chức Sắc Phước Thiện hay là buộc tội Chức Sắc ấy thì về quyền đặc biệt của Đức Hộ Pháp mà thôi.
 
Tổ chức địa phương:
Mỗi Quận Đạo phải lập ra một nhà sở Phước Thiện chánh thức, nơi nhà sở ấy mới đặng phép hội hiệp lo thương lượng làm ăn thuộc về Phước Thiện.
Mỗi Làng Đạo phải khai mở nhiều sở lương điền công nghệ, thương mãi. Các sở Lương điền, Công nghệ, Thương mãi ấy phải chịu dưới quyền của sở Phước Thiện chánh.
Nơi mỗi nhà sở Phước Thiện chánh phải lập một cơ quan thiết dụng như là:
Bảo sanh viện, y viện, ấu trỉ viện,dưỡng lão đường, học viện,…
Mỗi sở lương điền công nghệ phải có 1 vị Chủ Sở làm đầu. Vị nào muốn đặng chọn cử làm Chủ Sở thì phải là hạng Hành Thiện mới đặng.
Mỗi nhà Sở Phước Thiện trong Quận Đạo phải cử ra 1 Bàn Cai Quản để lãnh trách nhiệm Chủ Trưởng nhà sở ấy. Mỗi Bàn Cai Quản phải có ít nữa là 12 người Chức Việc: 1 Chủ trưởng, 1 Phó chủ trưởng, 1 Thủ bổn, 1 Phó thủ bổn, 1 Từ hàn, 1 Phó từ hàn, 6 nghị viên,
Trước khi xướng lập cơ sở Lương điền, Công nghệ, thì chỉ nhờ nơi lòng từ thiện của toàn Đạo Hữu trợ giúp. Ngoài ra, những vị nào hảo tâm dâng thêm tài vật chi xứng đáng thì đặng nêu tên vào bảng danh dự để làm kỷ niệm nơi cơ-sở.
Những vị nào hảo tâm hiến nhà hiến đất, hoặc các tài vật khác, thì phải làm giấy tờ cho rành rẽ, đóng bách phần cải bộ đặng giao trọn quyền cho Phước Thiện làm chủ.
Những vị đã trọn hiến thân vào sở thì Chủ Sở phải bảo toàn gia tộc của vị hiến thân ấy như chồng, vợ, con, cha mẹ ruột, cha mẹ vợ, cha mẹ chồng và cắt phận sự cho mỗi người. Mỗi sở Hành Thiện phải bảo toàn cho đủ 12 gia tộc mới đúng phép hành thiện theo luật Phước Thiện.
 
Đại Hội Phước Thiện.
Mỗi năm, sau ngày Hội Quyền Vạn Linh có Đại Hội Phước Thiện một lần.
Về phần tuyển chọn Phái Viên của hạng Minh Đức, Tân Dân và Thính Thiện tức là hạng mới xin làm công quả học Thiện, hoặc theo Thiện, hoặc nghe Thiện.
Mỗi Quận Đạo nào có lập cơ sở lương điền công nghệ, thương mãi thuộc về Phước Thiện, thì từ 1 đến 500 người hiến thân công quả đặng cử 1 vị Phái Viên ra thay mặt, từ 501 đến 1000 thì công cử 2 vị y theo thể lệ chọn Phái Viên Quyền Vạn Linh.
Về phần công cử Nghị Viên của hạng Hành Thiện tức là hạng Chủ Sở và Chức việc Bàn Cai Quản nhà sở Phước Thiện chánh.
Mỗi Quận Đạo nào có lập cơ sở lương điền công nghệ, thương mãi thuộc về Phước Thiện, thì cả Chủ Sở nơi ấy và Chức việc Bàn Cai Quản hiệp nhau công cử Nghị Viên…
Nghị Viên và Phái Viên hiệp lại gọi là Ban Ủy Viên thay mặt cho toàn Phước Thiện nơi mỗi Quận.
Người đắc cử phải là hạng trường trai, có tánh đức tốt mới xứng là người thay mặt cho Phước Thiện.
Còn phần Chức Sắc chánh danh Phước Thiện Nam Nữ từ Giáo Thiện đổ lên đều có quyền đến dự Hội toàn Phước Thiện.
 
C - CƠ QUAN PHỔ TẾ.
Hội Thánh phải tuyển chọn những Chức Sắc Thiên Phong đủ tài đủ đức đặng thuyên bổ qua cơ-quan Phổ Tế.
Chư vị Chức Sắc lãnh phần Phổ Tế phải kể mình như các vị Quan Phương Bá nhà Châu buổi nọ, nghĩa là mảnh thân gánh nặng nghĩa vụ nơi vai, thì phải châu lưu cùng khắp trong chốn thôn quê sằn dã, vào tận nơi nào có lấp loáng bóng người đặng đem chơn lý Đạo mầu thức tỉnh cho thế gian hồi tâm giác ngộ, kẻo một ngày trễ là một ngày hại cho nhơn sanh chưa biết Đạo.
Đối với các Chi Phái do Đại Đạo lập thành mà phản loạn Chơn Truyền, ngày nay đã lỗi thệ cùng Thầy, thì xin Hội Thánh thể lòng đại từ đại bi của Đức Chí Tôn, mở kỳ ân xá cho họ đặng nhập môn tái thệ y theo Châu Tri số 31 đề ngày 18 tháng 9 năm Bính Tý, duy trong Châu Thành Tòa Thánh, những kẻ phản Đạo không đặng nhập môn trở lại mà thôi.
Ngoài ra các vị Phổ Tế, nếu có Chức Việc hoặc Đạo Hữu nào độ đặng 500 tới 1.000 người ngoại đạo nhập môn, thì vị ấy sẽ đặng Hội Thánh đem ra Quyền Vạn Linh cầu xin phong thưởng vào phẩm Lễ Sanh, độ đặng từ 1.000 tới 3.000 người thì được vào phẩm Giáo Hữu, độ đặng từ 3.000 tới 10.000 người thì đặng vào phẩm Giáo Sư.
 
D - TÒA ĐẠO.
- Nghĩ vì Tòa Đạo là một cơ quan bảo thủ Chơn Truyền y theo khuôn viên Đạo Pháp, bảo đảm sanh chúng, trị loạn, phò nguy, gìn cân công lý cho toàn cả chúng sanh đặng sống một cách thung dung thơ thới dưới mặt Luật Công Bình của Đạo.
Tòa Đạo lập ra cốt yếu để binh vực những người bị uất ức, trừng phạt những người phạm Luật Pháp, gìn giữ quyền hành phân minh, đẳng cấp trật tự cho nền Chánh Trị Đạo.
Trách nhiệm trọng hệ hơn hết của Toà Đạo là vô tư vô vị.
- Những vị nào phạm Luật Pháp, thì chiếu theo Thập Hình của Đức Lý Gìáo Tông mà định tội. Kẻ phạm phải chịu dưới 2 quyền luật:
1 - Luật: là Tân Luật và Luật Hội Thánh.
2 - Pháp: là Pháp Chánh Truyền và Đạo Nghị Định.
 Về phạm pháp thì có 5 hình phạt: Đệ I tới Đệ ngũ hình
Về phạm luật thì có 10 hình phạt: Đệ I tới Đệ thập hình.
 
KẾT LUẬN:
Đạo luật năm Mậu Dần là một sự chỉnh đốn lại Đạo sau một thời kỳ xáo trộn phân ly. Nhờ vào quyền hành thống nhứt ĐHP đã dần dần ổn định và phát triển cơ Đạo. ĐHP đã xây dựng được Tòa Thánh nhờ vào cơ quan Phạm Môn sau chuyển qua Phước Thiện là những con cái trung kiên vì Thầy vì Đạo …
Tóm lại đây là thời kỳ xây dựng nền móng vững chắc cho cơ Đạo, nhứt là sự ra đời của Cơ Quan Phước Thiện. Nếu cơ quan nầy lớn mạnh thì xã hội sẽ không còn những mảnh đời đáng thương không ai chăm sóc bảo dưỡng… thì mới trọn vẹn được cơ cứu khổ của nền Đại Đạo./.
* Quang Thông
(12-2021)
*   *   *
Tóm lược  thảo luận giáo lý ngày 5-12-2021, đề tài Đạo Luật Mậu Dần (1938).
Câu hỏi 1: Đạo luật Mậu Dần buộc CTS phải trường chay và độ 300 người nhập môn thì mới đặng đem vào sổ cầu phong lên Lễ Sanh. Hiện nay các điều nầy còn áp dụng không?
Giải đáp: Trong Đạo luật Mậu Dần ở phần chót có câu: :  “Bộ Luật nầy ban hành kể từ ngày Rằm tháng Giêng năm Mậu Dần (14 Février 1938) và ngày sau còn thêm vào nữa, tùy theo trình độ của Chúng sanh”.
Chúng ta biết rằng mỗi năm có kỳ Đại hội Nhơn Sanh thì nhơn sanh có quyền nêu lên nguyện vọng của mình và nếu được Quyền Vạn Linh chấp thuận thì sẽ đem ra thi hành. Đó là nguyên tắc dân chủ trong đạo Cao Đài.
Theo HT Nguyễn Văn Hồng ấn bản ĐL Mậu Dần vào năm (1952) có thêm các câu như sau:
“Rộng ơn cho thỏa lời ước vọng của nhơn sanh, là để tự do cho hàng Lễ Sanh giữ trai tâm bao nhiêu tùy ý, song chẳng đặng dưới 10 ngày.
Truất quyền dự Hội Nhơn Sanh, quyền Hành Chánh và quyền Hành Pháp cho những vị Lễ Sanh nào chưa trường trai”.
Phẩm CTS thấp hơn Lễ Sanh nên điều nầy cũng áp dụng cho cả Chánh Trị Sự, nghĩa là CTS muốn xin cầu phong lên Lễ Sanh thì không cần phải trường trai nữa…
Về điều CTS phải độ cho đặng ít nhứt 300 người nhập môn mới đặng cầu phong trên thực tế sau nầy cũng không còn áp dụng nữa…
Câu hỏi 2: Đạo luật Mậu Dần cho phép những người chưa nhập môn Cao Đài vào làm công quả ở hàng Minh Đức nhưng nếu người đó được thăng phẩm lên cao hơn thì có phải nhập môn hay không ?
Giải đáp: Theo bảng đối phẩm giữa Hành Chánh và Phước Thiện thì hai hạng Minh Đức và Tân Dân đối ngang bực đạo hữu, còn Thính Thiện và Hành Thiện đối phẩm ngang Bàn Tri Sự và có thể được bầu cử làm phái viên trong đại hội Phước Thiện nên bắt buộc phải là người có nhập môn mới được.
Câu hỏi 3: Nếu một vị chức sắc các tôn giáo khác muốn vào làm công quả trong Cơ Quan Phước Thiện Cao Đài và vẫn giữ chức phận trong tôn giáo mình có được không ?
Giải đáp: Nếu vị đó vào làm công quả ở hàng Minh Đức thì đương nhiên là được vì giống như người thường thôi.
Còn trường hợp vị đó muốn gia nhập Đạo Cao Đài thì theo Đạo Nghị Định 48, do Đức Lý Giáo Tông và Đức Hộ Pháp ban hành ngày 10-12-1938 có qui định như sau:
“Những người ngoại giáo hay chư vị đạo nhơn các nền tôn giáo khác, muốn nhập vào cửa Đạo, thì Hội Thánh sẽ do nơi công nghiệp PT của họ mà định vị, tùy theo công nghiệp nhỏ lớn đặng định phẩm từ bực Minh Đức tới Chơn Nhơn mà thôi.
Còn bậc Hiền Nhơn đổ lên thì giúp Hội Thánh giữ gìn chơn pháp, nên các phẩm vị nầy phải có cơ bút giáng phong mới đặng”.
Trong sử Đạo có trường hợp 1 vị nữ tu là Bà Diệu Minh Võ Duy Nhứt làm chủ trưởng Vạn Quốc Tự Đô Thành Sài Gòn (là cơ sở nữ tu nuôi dạy trẻ mồ côi và mở tiệm cơm chay) xin về với Đạo đã được Đức Hộ Pháp phong phẩm Đạo Nhơn trong cơ quan Phước Thiện (Đàn cơ ngày 16-4-Quý Sửu, 1973).
Câu hỏi 4: Trước năm 1975, cơ quan Phổ Tế do các Chức Sắc nào điều hành? Cơ quan Phổ Tế có phải là Cơ Quan Truyền Giáo không? Ở hải ngoại, các TT nên làm gì để đi truyền giáo?
Giải đáp:
Trong chương Phổ Tế có quy định: “Hội Thánh phải tuyển chọn những Chức Sắc Thiên Phong đủ tài đủ đức đặng thuyên bổ qua cơ-quan Phổ Tế”. Như vậy cơ quan nầy không có hàng phẩm chức sắc riêng mà do chức sắc Hành Chánh bổ nhiệm qua để làm nhiệm vụ phổ tế. Trong phần mở đầu Đạo Luật, Đức Hộ Pháp giao cho 2 vị là: Giáo Sư Thượng Đức Thanh và Bà Giáo Sư Hương Quế đứng đầu…
Theo tờ Kiết chứng là phần mở đầu của Đạo Luật có định nghĩa: “PHỔ TẾ là cơ quan để cứu vớt hoặc độ rỗi những người lạc bước thối tâm, cùng an ủi khuyên lơn những kẻ đã bị luật pháp buộc ràng mà phế vong phận sự, hay là độ rỗi những kẻ hữu tâm tầm Đạo”.
Chúng ta biết khoảng thời gian nầy nảy sanh ra nhiều chi phái, họ đang vận động lôi kéo tín đồ nơi xa xôi về phía họ nên chức sắc Phổ Tế phải đến những nơi thôn quê sằn dã để ổn định tâm lý nhơn sanh, và cũng độ những người có tâm tầm Đạo mà chưa có cơ hội…Chức sắc Phổ Tế chỉ hoạt động trong nước còn việc truyền giáo ngoại quốc thì có Hội Thánh Ngoại Giáo ở Nam Vang lo liệu…
Ở Hải ngoại hiện nay không có cơ quan nào lảnh nhiệm vụ truyền giáo chánh thức nhưng bằng nổ lực cá nhân hay từng Thánh Thất vẫn có các hoạt động truyền giáo như : tham gia các đại hội tôn giáo thế giới, dịch thuật ấn hành kinh sách ngoại ngữ, thành lập các trang mạng ngoại ngữ , cung cấp tài liệu cho các lớp giảng dạy về đạo Cao Đài ở các phân khoa đại học ở một số quốc gia…
Câu hỏi 5: Luật Đạo Cao Đài gồm có Pháp Chánh Truyền, Tân Luật, Đạo Luật Năm Mậu Dần, Bát Đạo Nghị Định. Ngoài những luật này ra chúng ta còn có những luật nào khác không? Các Thánh Lịnh của Hội Thánh có phải là luật không? Nơi nào (trang web nào) ghi lại tất cả các Thánh Lịnh (trước năm 1975).
Giải đáp: Ngoài các luật pháp kể trên chúng ta còn một số đạo luật cũng không kém phần quan trọng như: Luật Lệ Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh, Quyền Tư Pháp và Nội Trị Đạo, Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài, Nội Luật Tòa Thánh, Quan Hôn Tang Lễ,…
Còn các văn bản như Thánh Lịnh, Huấn Thị, Thánh Huần, Thông Tri, …là những văn bản để thi hành Pháp Chánh Truyền và các Đạo Luật,…

Hiện nay một số các văn bản nầy có đưa lên trang www.daotam.info trong phần Đạo sự văn thư…

NỐI BƯỚC. N°I   [1]  [2 [3 [4 [5 [6 [7 [8 [9 [10 [11 [12 [13 [14 [15 [16 [17