* Mục 1: Chuẩn bị ba (3) thức nhập Thiền.
- Thức 1. Thân Thể:
- Thức 2: Tinh Thần:
Để dễ tập trung vào việc thiền, người hành
thiền phải dứt các lo lắng với công việc, giảm dứt các tham muốn, không còn các
sự buồn phiền, giận hờn, ghen tị và tưởng nhớ, v.v.... Cũng cần phải tin pháp
môn hành trì, tin thiện tri thức, tin chính mình có đủ khả năng, tất cả không
một chút nghi ngờ, gọi là có chính tín.
- Thứ 3: Phương Tiện:
Dụng cụ để Tịnh cho người mới tập, dùng một
cái gối bằng bông dầy mỏng tùy ý. Ngoài ra, cần dùng một cái chăn mền mỏng, để
lót trên nền ngồi, nếu nền ngồi có thảm, không cần mền. Tốt nhất là không ngồi
trên bất cứ dụng cụ nào như trên.
* Mục Hai: Cách Ngồi:
Chăn mền gấp làm tư trải xuống, để gối trên
mền ngay ngắn.
- Cách Ngồi 1: Ngồi Bán Kết Già:
Để chân trái trên đùi phải, hay chân phải
trên đùi trái, bàn chân nằm ngửa bằng với đùi, nếu bàn chân không thể để trên
đùi, thì để trên bắp chân. Chân kia nằm ngửa phiá dưới, bằng đùi kia, hay giữa
đùi và bắp chân.
- Cách Ngồi 2: Ngồi Kết Già:
Cũng giống như ngồi bán kết già nêu trên,
nhưng phải kéo bàn chân kia lên nằm ngửa trên đùi và bằng đùi kia.
Cách ngồi này khó, chỉ dễ đối với người đã
ngồi quen rồi, hoặc người trẻ tuổi. Người mới tập ngồi thường hay bị tê chân và
đau mỏi, về sau khi ngồi quen rồi thì chân hết tê hay đau mỏi, có thể ngồi lâu
được.
* Mục 3: Trước Khi Thiền:
Có 6 điều cần làm là:
- Điều 1: Về Tay:
Tay trái nằm ngửa để trên chân ở
giữa hai đùi, tay phải cũng nằm ngửa để trên tay trái hay ngược lại, các ngón
chồng lên nhau, trừ hai ngón cái để vừa đụng nhau, rồi hai bàn tay kéo sát vào
người, không cho xê dịch.
- Điều 2: Về Lưng Cổ:
- Giữ cho xương sống và cổ ngay
ngắn, không cong, không nghiêng vẹo.
- Điều 3: Về Đầu Mặt:
Đầu hơi cúi một chút, để tầm mắt
nhìn thẳng chạm đất xa khoảng 1 mét 5 (là khoảng 5 feet ) cách chỗ ngồi.
- Điều 4: Về Cách Thở:
- Tiếp theo dùng miệng thở hơi ra
dài, từ từ nhẹ nhẹ, rồi dùng mũi hít vào cũng từ từ. Khi thở ra tưởng tượng như
tất cả những buồn phiền lo lắng, và khí độc trong người đều ra hết, và khi hít
vào những khí trong lành đều lưu thông cùng khắp cơ thể. Thở ra hít vào như thế
3 lần hoặc nhiều hơn tùy ý. Khi thở xong, để hơi thở tự nhiên, nhẹ nhàng, không
nên cố thở, hoặc kìm giữ hơi thở.
* Điều 5: Về Miệng Lưỡi Răng:
- Miệng ngậm, hai môi khép kín
vừa phải, hàm dưới trong, hàm trên ngoài, răng để khít nhau, lưỡi để sát lên
trần của hàm trên.
* Điều 6: Về Mắt:
- Mắt nhắm vừa đủ để che ánh sáng
bên ngoài đối với ban ngày hoặc có đèn sáng.
- Trong khi thiền nhắm mắt dễ bị
hôn trầm (là mờ mịt buồn ngủ), mở mắt to dễ bị tán loạn. Nếu thiền ban đêm hay
trong phòng tối nên mở mắt một nửa, tránh được buồn ngủ.
Từ đây, giữ hơi thở điều hòa,
không gấp không chậm, không gây thành tiếng, thân ngồi ngay thẳng vững vàng,
không cử động xê dịch, và bắt đầu hành thiền.
* Mục 4: Thực Hành Thiền:
- Trên đây là chỉ chung cách
ngồi, tùy theo pháp môn tu mà mỗi người chọn để thực hành thiền. Mỗi pháp môn
đều có chỉ dẫn cách thực hành thiền riêng của nó, như:
Tu Chỉ để tâm được tịch tịnh vắng
lặng.
Tu Quán là quan sát tướng nhân
duyên, như:
- Quán "Thân bất tịnh"
để trị tham dục.
- Quán "Từ, Bi, Hỷ, Xả"
để trị sân hận.
- Quán "Sổ tức" để trị
hôn trầm tán loạn, v.v….
Tu Tham Thiền của Thiền Tông, tuy
không chủ trương ngồi thiền, nhưng không phải là bác bỏ hẳn việc ngồi thiền, vì
ngồi dễ dàng hơn cho việc thực hành tham thiền.
* Mục 5: Cách Trị Các Bệnh Khi Ngồi
Thiền:
Khi Ngồi Thiền có thể xảy ra bệnh
Hôn trầm hoặc Tán loạn.
- Thứ Nhất: Cách Trị Hôn Trầm:
Hôn trầm là chìm vào mê tối. Nếu
trong khi ngồi thiền tâm biết mờ mịt, nửa thức nửa ngủ, đầu gục xuống, có khi
chảy nước rãi từ miệng ra. Đây là Hôn trầm, và rơi vào Vô Ký (là không tỉnh),
phải nhấc đầu lên, mắt mở to ra một chút, để tâm nơi đầu mũi. Nếu vẫn còn xảy
ra như thế, phải quán “Sổ tức” là đếm hơi thở, để trị hôn trầm.
Sau đây lược trích đoạn Kinh
Trưởng Lão Buồn Ngủ trong Trung A Hàm quyển 2 trang 391, Đức Phật dạy Tôn giả
Mục Kiền Liên cách trị buồn ngủ như sau:
- Một thời Đức Phật ngự ở vườn
Lộc Dã, xứ Bà Kỳ Sấu, khi đó Tôn giả Trưởng Lão Mục Kiền Liên ở làng Thiện tri
thức, nước Ma Kiệt.
- Một hôm Ngài ở trong Đại Định
thấy Tôn giả Mục Kiền Liên đang buồn ngủ, Ngài liền dùng Như kỳ tượng định, chỉ
trong chớp mắt Ngài tới trước mặt Tôn giả, và nói:
-
Mục Kiền Liên, thầy đang mắc phải chứng buồn ngủ.
Tôn giả Mục Kiền Liên nghe tiếng
Đức Phật nói, bừng tỉnh, vội trả lời:
- Thưa Thế Tôn, quả thật con đang
mắc chứng buồn ngủ.
Đức Phật dạy:
- Nếu buồn ngủ, thầy biết là
tướng nào của mình (là suy tư về sự viêc gì) gây buồn ngủ, thầy chớ tu tập theo
tướng ấy nữa. Hãy theo giáo pháp khác đã được nghe được biết, tùy theo đó mà
thụ trì, suy niệm suy tư.
Nếu chứng buồn ngủ vẫn chưa hết,
hãy dùng hai tay xoa hai bên mép tai, hoặc rửa mặt, hoặc đi tắm. Nếu vẫn chưa
hết buồn ngủ, hãy đi ra ngoài nhìn trăng sao, đi kinh hành, giữ chính niệm, giữ
gìn các căn, trụ tâm bên trong.
Sau khi đi kinh hành, ngồi thiền
trở lại, nếu buồn ngủ vẫn chưa hết, hãy nằm nghiêng bên phải, hai chân chồng
lên nhau. Nghĩ tưởng về ánh sáng, an trú chính niệm, khởi ý niệm muốn thức dậy.
Đừng ham lạc thú ngủ nghỉ, tài danh.
Khi Đức Phật giảng dạy cho Tôn
giả Mục Kiền Liên xong, Ngài biến khỏi nơi ấy trở về vườn Lộc Dã.
- Thứ 2: Cách Trị Tán Loạn:
Tán loạn là suy nghĩ tưởng nhớ đủ
thứ việc nọ, chuyện kia. Nếu ngồi thiền để lưng cong, ễnh bụng ra, dễ sinh mệt
mỏi, tán loạn, sinh bệnh, phải sửa lại lưng cho ngay thoải mái, để tâm nơi đầu
mũi.
Nếu vẫn còn xảy ra như thế, phải
quán Sổ tức là đếm hơi thở, để trị tán loạn.
Nên nhớ bài kệ nói về hôn trầm
tán loạn khi ngồi thiền của Thiền Sư Vĩnh Gia Huyền Giác:
Tỉnh tỉnh lặng lặng phải,
Vô ký lặng lặng sai,
Lặng lặng tỉnh tỉnh phải,
Loạn tưởng tỉnh tỉnh sai.
* Mục 6: Thời Gian Ngồi
Thiền Và Xả Thiền:
Thời gian thiền dài ngắn tùy theo mỗi hành
giả, từ nửa giờ, tới một giờ, hay 2 giờ, tùy sức mỗi người. Thông thường khi
mới tập thiền, ngồi trong thời gian ngắn 15, 20 phút, sau tăng dần lên 30, rồi
45 phút, v.v....
Khi xuất thiền trước nhất phóng tâm theo cảnh
khác, kế há miệng thở ra hơi dài từ từ, dùng mũi hít vào cũng từ từ, tưởng
tượng khắp các mạch máu, đều theo hơi thở vào mà lưu thông cùng khắp.
Kế là động nhẹ thân, hai vai, hai tay,
lưng, cổ, rồi động đến bắp thịt hai chân. Sau, dùng hai tay xoa vào nhau nhiều
lần, áp đặt hai bàn tay trên hai mắt khoảng năm ba giây. Xong xoa vuốt quanh
mặt, vòng lên đầu qua phía sau xuống cổ, vòng quanh tai, làm ba lần, rồi dùng
hai bàn tay bóp nhẹ hai gan bàn chân, và các bắp thịt chân.
Việc xả thiền nên làm từ từ, nếu làm không
đầy đủ, có thể bị chứng nhức đầu, bị chuột rút, tê cứng ở chân, v.v…
* Phần Hai: Quán Hơi Thở:
Có 3 thứ quán hơi thở:
- Thứ Nhất: Quán Sổ Tức:
Quán Sổ Tức là quan sát đếm hơi thở. Quán
đếm hơi thở là căn bản để trị hôn trầm tán loạn. Tất cả các pháp môn, trong khi
thiền đều có thể xảy ra hôn trầm và tán loạn, có ba cách đếm:
- Cách Đếm 1: Đếm hơi lẻ:
Là thở hơi vào đếm một, thở hơi ra đếm hai,
thở hơi vào đếm ba, thở hơi ra đếm bốn. Cứ thế thở và đếm cho đến mười. Rồi lại
bắt đầu đếm từ một đến mười, cứ thế đếm đi đếm lại từ một đến mười, trong nửa
giờ, một giờ tùy ý.
- Cách Đếm 2: Đếm hơi chẵn:
Là thở vào rồi thở ra đếm một, thở vào rồi
thở ra lần nữa đếm hai, cứ như thế thở và đếm tuần tự tới mười. Khi đếm đến
mười rồi, tiếp tục đếm lại từ một cho đến mười, đếm cho tới khi xả quán.
- Cách Đếm 3: Đếm nghịch:
Là dùng một trong hai cách đếm trên, nhưng
là đếm ngược từ mười đến một.
Nói thì dễ nhưng làm không dễ, thường hay
mắc các khuyết điểm như:
- Đếm nhảy, như đếm đến bốn liền nhảy lên
sáu, đếm đến năm liền nhảy lên tám, v.v...
- Đếm thừa, như đã đếm đến sáu, lại đếm
năm, đã đếm đến bảy lại đếm bảy nữa v.v...
- Đếm quên: Đang đếm bỗng quên không nhớ là
đếm đến mấy rồi!
Nếu đếm lẫn lộn như thế, phải đếm lại.
Trường hợp Tôn giả Chu Lợi Bàn Đặc Ca đần
độn, tụng một bài kệ bốn câu trong ba tháng mà không thuộc, lúc quên đầu, lúc
sai đuôi. Đức Phật thấy thế ban cho cách “đếm hơi thở vào ra”, Tôn giả bèn cứ
thế mà thực hành, không hề ngưng nghỉ, chỉ chú tâm đếm theo hơi thở, ngoài hơi
thở ra, không suy nghĩ tưởng nhớ gì khác, cho đến vi tế tột cùng.
Tôn giả thấy hết thảy vạn vật đều sinh,
trụ, dị, diệt từng mỗi sát na, và đạt đến tâm định tĩnh rỗng rang tự tại vô
ngại. Tôn giả Chu Lợi Bàn Đặc Ca đã được Đức Phật ấn chứng là bậc A La Hán.
- Thứ Hai: Quán Tùy Tức:
Tôn giả Tôn Đà La Nan Đà mỗi khi ngồi
thiền, tâm thường loạn động, Đức Phật thấy thế dạy Quán Tùy Tức là quán "Hơi thở vào ra nơi đầu mũi", tập
trung tất cả vào đó.
Tôn giả quán sát kỹ nơi đầu mũi như thế,
sau 21 ngày Tôn giả thấy hơi trong mũi thở vào ra như khói, thân tâm thế giới
trong ngoài rỗng suốt trong sạch như ngọc lưu ly.
Rồi dần dần tướng khói tiêu mất, mà hơi thở
lại biến thành sắc trắng, tâm được khai ngộ, các lậu hoặc phiền não đều hết,
hơi thở vào ra biến thành ánh sáng quang
minh soi khắp mười phương thế giới.
Tôn giả đã được Đức Phật ấn chứng là bậc A
La Hán, và thọ ký cho Tôn giả sẽ đắc qủa Bồ đề (thành Phật) trong tương lai.
- Thứ Ba: Quán An Ba Ban Na:
Tôn giả La Vân là con ruột của Đức Phật
thường lo buồn, hay suy nghĩ tưởng nhớ đủ thứ chuyện, được Đức Phật chỉ cho
cách tu "An Ba Ban Na".
Sau khi ghi nhận lời dạy một cách chu đáo,
Tôn giả La Vân liền đến gốc cây ngồi kết già, chính thân chính ý, không nghĩ
tưởng chuyện khác, giữ tâm ở đầu mũi.
Tôn giả thở vào dài biết thở vào dài, thở
ra dài biết thở ra dài; thở vào ngắn biết thở vào ngắn, thở ra ngắn biết thở ra
ngắn. Thở vào mát biết thở vào mát, thở ra mát biết thở ra mát; thở vào ấm cũng
biết thở vào ấm, thở ra ấm cũng biết thở ra ấm.
Quán khắp toàn thân hơi thở vào ra, thảy
đều biết cả; lúc có thở biết có thở, lúc không thở biết không thở. Hơi thở từ
ngoài vào biết hơi thở từ ngoài vào, hơi thở từ trong ra biết hơi thở từ trong
ra.
Tôn giả La Vân tư duy như thế, dục tâm được
giải thoát, có giác có quán, hoan hỉ an lạc đạt Sơ thiền.
Có giác có quán hỉ, chuyên chú nhất tâm,
nhập Tam muội không giác không quán, hỉ lạc đạt Nhị thiền.
Không còn niệm hỉ lạc, tự giữ giác tri thân
lạc, xả niệm hỉ, đạt Tam thiền.
Khổ vui đã diệt hết sầu lo, không khổ không
vui, xả niệm thanh tịnh, đạt Tứ thiền.
Do Tam muội này, tâm thanh tịnh sáng suốt,
biết từ đâu sinh ra, biết vô số kiếp về trước của mình, biết chỗ khởi tâm suy
nghĩ của chúng sinh, biết nhân qủa lành dữ của hết thảy chúng sinh.
Do tam muội này, thấy biết như thật về khổ,
nguyên nhân gây ra khổ, cách diệt khổ, và con đường dẫn đến Đạo. Do tam muội
này, tâm dục lậu đã sạch, liền được giải thoát, sinh tử đã dứt, phạm hạnh đã
lập, việc làm đã xong, biết rõ không còn tái sinh, đã ra ngoài vòng luân hồi
sinh tử của sáu cõi.
Lúc ấy, Đức Phật bảo các Tỳ Kheo: "Tỳ Kheo La Vân là người trì cấm giới thứ
nhất, cũng là người thứ nhất sạch hữu lậu hết ô nhiễm trong các vị đắc A La Hán".
* Toàn Không.
Home. NỐI BƯỚC N°11. Mục Lục: [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [ 9 ] [10] [11] [12] [13] [14] [15] [16] [17] [18] [19]